Sau khi hoàn thành việc trùng tu vào tháng 12/2022, hai ngôi tháp gồm tháp Bắc và tháp Giữa, thuộc quần thể tháp Chăm Khương Mỹ, xã Tam Xuân, thành phố Đà Nẵng đã xuống cấp nghiêm trọng.
Tháp Bắc và tháp Giữa là 2 trong số 3 ngôi tháp gồm tháp Bắc, tháp Giữa và tháp Nam thuộc quần thể di tích tháp Chăm Khương Mỹ, xã Tam Xuân, thành phố Đà Nẵng, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1989.
Tháp Bắc và tháp Giữa được trùng tu năm 2019, với tổng kinh phí 12,6 tỷ đồng, hoàn thành cuối năm 2022. Tuy nhiên, chỉ sau hơn 2 năm sau khi trùng tu, tháp Bắc và tháp Giữa đã xuống cấp nghiêm trọng.
“Cách đây 2 năm có đoàn đến trùng tu các tháp song không đạt kết quả như mong muốn. Mới hơn 2 năm, tháp đã bị xuống cấp nặng. Trước đây, khách du lịch đến tham quan nhiều, mấy năm trở lại đây, lượng khách giảm vì tháp xuống cấp. Chúng tôi mong các cơ quan chức năng sớm tôn tạo lại tháp hiệu quả để bảo tồn di tích quý giá này”, ông Nguyễn Dục, người dân địa phương chia sẻ.
Hiện tại, nhiều vị trí của tháp Bắc xuất hiện tình trạng gạch trùng tu bị mủn nát. Tại các mảng tường trên thân tháp Bắc mới trùng tu, nhiều viên gạch bị bong tróc, muối hóa. Chất liệu gạch tại nhiều mảng tường mới được trùng tu dễ bị vụn nát khi có tác động nhẹ.
Tháp Giữa cũng đang xuống cấp nghiêm trọng sau hơn 2 năm trùng tu, tháp Nam đang được tôn tạo song không hiểu vì sao đã dừng thi công thời gian qua.
Ông Nguyễn Chí Dân, Chủ tịch UBND xã Tam Xuân, thành phố Đà Nẵng cho biết, tháp Chăm Khương Mỹ được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1989, từ đó đến nay, tháp được đầu tư trùng tu, tôn tạo thân tháp, tường rào và nhà quản lý. Tuy nhiên, qua thời gian và điều kiện thời tiết, đặc biệt sự khác biệt về vật liệu, công nghệ được sử dụng tôn tạo khác với chất liệu gốc nên công trình đã xuống cấp. Xã mong thành phố Đà Nẵng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch sớm có dự án tôn tạo để bảo vệ và giữ gìn di tích.
Bà Hoàng Thị Bích Hạnh, Giám đốc Ban Quản lý di tích và Bảo tàng Quảng Nam cho biết, trải qua hơn 1.000 năm tồn tại, di tích tháp Chăm Khương Mỹ đã xuống cấp nghiêm trọng. Để đảm bảo tính ổn định, chống xuống cấp cho di tích, phục vụ việc khai thác, phát huy giá trị của tháp, năm 2019, tỉnh Quảng Nam (cũ) đã phối hợp với các cơ quan chuyên ngành ở Trung ương, địa phương thực hiện tu bổ, phục hồi tháp Bắc và tháp Giữa tại hạng mục thân tháp, cửa hướng Đông. Tháng 12/2022, dự án trùng tu, tôn tạo tháp Bắc và tháp Giữa hoàn thành, nghiệm thu đưa vào sử dụng.
“Ngay sau khi phát hiện tình trạng bong tróc, mủn gạch tại di tích tháp Chăm Khương Mỹ, Ban Quản lý di tích và Bảo tàng Quảng Nam đã khảo sát, đánh giá và báo cáo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng về tình trạng này. Kết quả kiểm tra cho thấy, tình trạng mủn gạch và gạch bị bong tróc xảy ra chủ yếu tại hạng mục đã tu bổ thuộc tháp Bắc với diện tích ảnh hưởng dưới 30% diện tích tu bổ đã thực hiện. Hiện tượng muối hóa, rêu mốc xuất hiện tại các hạng mục đã thực hiện tu bổ thuộc tháp Bắc và tháp Giữa”, Giám đốc Ban Quản lý di tích và Bảo tàng Quảng Nam Hoàng Thị Bích Hạnh cho biết.
Theo Giám đốc Ban Quản lý di tích và Bảo tàng Quảng Nam, Ban đã đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép sửa chữa nhỏ di tích bằng cách thay thế những mảng gạch đã tu bổ nhưng bị mủn, bong tróc bằng vật liệu bền vững, tương đồng về chất liệu, hình dáng, kích thước, trọng lượng và đảm bảo tính thẩm mỹ nhằm hạn chế tình trạng xuống cấp của di tích. Đơn vị mong muốn, cơ quan chuyên môn nghiên cứu, xác định nguyên nhân căn cơ của tình trạng tháp xuống cấp tại tháp Chăm Khương Mỹ để có phương án bảo tồn di tích bền vững hơn.
Sự lo ngại về hiệu quả dự án bảo tồn đối với 2 ngôi tháp này của người dân là có cơ sở. Mặt khác, mong muốn tìm ra nguyên nhân căn cơ khiến tháp nhanh xuống cấp của chính quyền địa phương và đơn vị quản lý khai thác nhóm tháp Khương Mỹ đang cần câu trả lời xác đáng của cơ quan chức năng./.
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.
Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.
Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Ở: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.
Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...
Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.
Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.
Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà.
Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.
Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.
Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo.
Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp.

Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.
Theo cema.gov.vn
