Tài nguyên nhiên liệu - năng lượng với phát triển kinh tế - xã hội

Tài nguyên nhiên liệu - năng lượng với phát triển kinh tế - xã hội
Tuy vậy, thực tiễn phát triển kinh tế những năm vừa qua cho thấy, sự biến động về nhiên liệu và năng lượng diễn biến khá phức tạp. Bên cạnh việc xuất khẩu than và dầu thô, nước ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm dầu qua chế biến và điện năng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế -xã hội trong những năm tới, mà còn có thể xuất khẩu nguồn tài nguyên này dưới dạng năng lượng và thành phẩm đã chế biến, thích ứng với sự biến động của thị trường. 
 
Nhà máy nhiệt điện Vĩnh tân 2. Ảnh:nangluongvietnam.vn
Nhà máy nhiệt điện Vĩnh tân 2. Ảnh:nangluongvietnam.vn

Các nguồn nhiên liệu, năng lượng 

Theo Trung tâm Tư vấn mỏ và Công nghiệp, nguồn nhiên liệu và năng lượng của nước ta trước hết phải kể đến đó là than. Xét về trữ lượng, tổng trữ lượng than đã tìm kiếm thăm dò khoảng 6,14 tỷ tấn. Mỗi chu kỳ kế hoạch 5 năm, tổng sản lượng khai thác than tăng khoảng 1-5 triệu tấn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 

Về dầu khí, cho đến nay, Việt Nam được đánh giá là quốc gia thuộc nhóm nước có nhiên liệu về dầu và khí. Tổng trữ lượng dầu khí có thể đưa vào khai thác ở nước ta khoảng 3,8-4,2 tỷ tấn quy đổi (TOE), trong đó trữ lượng đã được xác định khoảng 60%. Khả năng khai thác dầu thô so với năm 2010 dự báo đến năm 2020 sẽ sụt giảm, còn 16-17 triệu tấn/năm. 

Về thủy điện, theo đánh giá của các nghiên cứu gần đây, tiềm năng về kinh tế - kỹ thuật thủy điện của nước ta đạt khoảng 75-80 tỷ kWh với công suất tương ứng đạt 18000-20000MW. Trong đó, tiềm năng kinh tế của 10 lưu vực sông chính khoảng 85,9% của các lưu vực sông trong cả nước. Như vậy, tổng trữ lượng kinh tế kỹ thuật của các lưu vực sông chính hơn 18.000MW, cho phép sản lượng điện năng tương ứng khoảng 70 tỷ kWh. Theo dự báo kế hoạch phát triển thủy điện trong tổng sơ đồ điện VII đến năm 2020, toàn bộ trữ lượng tiềm năng kinh tế-kỹ thuật của thủy điện lớn sẽ được khai thác hết. Như vậy, năng lượng thủy điện từ các dòng sông chính sẽ không còn khả năng khai thác nữa. 

Đối với năng lượng thủy điện nhỏ, với mức công suất nhỏ hơn hoặc bằng 30MW, theo đánh giá tiềm năng có khoảng hơn 1.000 điểm có thể khai thác và cho tổng công suất khoảng 7.000MW, hiện các điểm này đã được xác định và đạt tiềm năng kỹ thuật. Thực tế đã có 114 dự án với tổng công suất khoảng 850 MW đã cơ bản hoàn thành, 228 dự án với công suất trên 2600 MW đang xây dựng và 700 dự án đang giai đoạn nghiên cứu. Ngoài ra, các dự án thủy điện cực nhỏ công suất dưới 100kW phù hợp với vùng sâu, vùng xa, những nơi có địa hình hiểm trở có thể tự cung tự cấp theo lưới điện nhỏ và hộ gia đình cũng đã, đang được khai thác. 

Về năng lượng mặt trời, vị trí địa lý của Việt Nam nằm trong giới hạn giữa xích đạo và chí tuyến Bắc, thuộc vùng nội chí tuyến có ánh nắng mặt trời chiếu sáng quanh năm, nhất là khu vực Nam Bộ. Với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400-3.000 giờ, tổng lượng bức xạ trung bình năm vào khoảng 230-250 lcal/cm2/ngày tăng dần từ Bắc vào Nam, với kết quả này có thể đánh giá, Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời. 

Tuy nhiên, hiện nay, việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này còn hạn chế, nhất là sử dụng cho phát điện, đun nước nóng và vào sấy khô…Một trong những nguyên nhân cơ bản là giá sử dụng nguồn năng lượng này so với các nguồn năng lượng khác kém cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác, cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng mặt trời và nhận thức của người dân cũng còn hạn chế. Trong tương lai, khi mà khai thác các nguồn năng lượng khác đã đến mức tới hạn, nguồn năng lượng mặt trời là một tiềm năng lớn. 

Nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á so với nhiều quốc gia khác, sinh khối của Việt Nam tăng trưởng nhanh, chính vì vậy có một nền nông nghiệp đa dạng và phát triển, nhiều sản phẩm xuất khẩu trên thế giới những năm qua đã chứng minh điều đó như lúa gạo, cà phê, hạt điều…, nguồn phế thải từ sản phẩm nông nghiệp là rất lớn. Đây là tiềm năng để chúng ta sử dụng nguồn năng lượng này trong tương lai. Mặt khác, năng lượng sinh khối còn được sử dụng từ các phế thải của chăn nuôi, rác thải hữu cơ đô thị và các chất thải hữu cơ khác. 

Tiềm năng và khả năng khai thác năng lượng sinh khối rắn cho năng lượng và phát điện của Việt Nam có thể đạt 170 triệu tấn và đạt mức sản lượng điện 2000MW phụ thuộc vào giá trị trường. Thực tế khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam đã và đang phát triển, song mới ở quy mô nhỏ và hộ gia đình. Trong tương lai, đây cũng là nguồn năng lượng lớn và có nhiều tiềm năng của Việt Nam. 

Về Năng lượng gió, với đặc điểm nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, lại có một bờ biển dài trên 3000 km, lãnh hải lớn hơn 3 lần so với lục địa, theo khảo sát, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng về năng lượng gió. Hiện nay chưa có số liệu chính xác đánh giá tiềm năng năng lượng gió chính xác, nhưng sơ bộ các đánh giá khác nhau đưa ra con số tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam dao động trong khoảng 1.785MW-8.700MW, có số liệu còn đưa ra khoảng trên 100.000 MW (dự báo của WB). Như vậy, nếu so với tiềm năng của thủy điện, nguồn năng lượng gió của Việt Nam rất dồi dào. Cũng có những nhìn nhận cho rằng,năng lượng gió không chỉ ở khu vực ven biển, mà ở những vùng núi của Việt Nam nhất là giữa các thung lũng dọc các sông, suối tiềm năng năng lượng gió là rất lớn. 
Nước ta cũng đã bắt đầu triển khai một số dự án khai thác nguồn năng lượng này ở Cà Mau, Ninh Thuận và một số huyện đảo không thể đưa điện lưới từ đất liền ra. Thực tế khai thác nguồn năng lượng gió cho thấy, giá thành điện của nguồn năng lượng này khó cạnh tranh trên thị trường so với các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nhiệt điện, nếu không có trợ giá của Nhà nước. 

Năng lượng địa nhiệt là nguồn năng lượng trong lòng đất cũng mới điều tra và tính toán ban đầu, cần phải tiếp tục điều tra kỹ lưỡng. Số liệu sơ bộ cho thấy, tiềm năng địa nhiệt của Việt Nam có thể khai thác đạt mức 340MW, năng lượng địa nhiệt phân bố rải rác trong cả nước, nhưng khai thác hiệu quả nhất chủ yếu ở khu vực miền Trung. Ngoài các nguồn nhiên liệu và năng lượng đã đề cập ở trên, Việt Nam còn có tiềm năng về năng lượng biển như thủy triều, các dòng hải lưu, băng cháy dưới đáy biển đang tiếp tục nghiên cứu để nhận dạng và đánh giá trữ lượng và khả năng đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, nhất là trong chiến lược khai thác năng lượng trong dài hạn. 

Mối tương quan kinh tế và năng lượng 

Hiện nay đã có những nghiên cứu khá chi tiết và đưa ra các mô hình dự báo về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và khả năng đáp ứng về nhu cầu nhiên liệu và năng lượng đến năm 2030. Trong đó, các kịch bản khác nhau đã được đưa ra dựa trên cơ sở tiềm năng nguồn nhiên liệu năng lượng sẵn có, sự biến động dân số, thực tiễn đã khai thác sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển những năm trước đây, kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo đến năm 2030. 

Về kịch bản tăng trưởng kinh tế tính theo chỉ tiêu GDP, được dự báo theo nghiên cứu của nhóm phân tích và dự báo của Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, từ năm 2011-2030, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam theo chỉ tiêu GDP dao động trong mức 7-8,6%. Chỉ tiêu của các ngành cũng không có những đột biết lớn, đối với nông - lâm - thủy sản dao động trong mức 2-3%; ngành công nghiệp - xây dựng ở mức 7,5-9,3%; ngành dịch vụ dao động trong mức 8-9,3%. Như vậy, sau mỗi giai đoạn chu kỳ 5 năm mức tăng trưởng đều, đòi hỏi một sự đáp ứng năng lượng cũng phải tăng trưởng phù hợp. 

Đối với dự báo về nhu cầu sử dụng năng lượng, nghiên cứu cũng đã chỉ ra đối với kịch bản cơ sở, giai đoạn 2010-2030 điện năng và tổng sản phẩm dầu chiếm tỷ trọng lớn trong suốt cả giai đoạn. Tỷ lệ tiêu thụ điện năng tăng từ 15,2% năm 2010 đến 32,1% năm 2030, còn đối với tiêu thụ than giảm nhẹ từ 20,1% xuống còn 18,2%, sử dụng khí đốt tăng từ 1% lên 1,6%, sản phẩm dầu tăng từ 33,7% lên 40,6%, đối với năng lượng phi thương mại giảm từ 28,9% xuống còn 7,5% tính cho dai đoạn 20 năm từ 2010 đến 2030. 

Trong giai đoạn 2010-2030, ngành sử dụng nhiều năng lượng nhất là ngành công nghiệp, tiếp đến là giao thông vận tải, sau đó là dân dụng và dịch vụ thương mại. Đáng lưu ý tăng trưởng sử dụng năng lượng đối với ngành công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương mại có sự tăng nhanh so với dân dụng và nông nghiệp. Từ năm 2025 đến năm 2030, khả năng thiếu năng lượng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế là không tránh khỏi, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có chiến lược đáp ứng tổng nhu cầu năng lượng sớm. 

Đề xuất giải pháp 

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, để đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới, Việt Nam cần có những giải pháp phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong hoàn cảnh ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, tính chất cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thị trường năng lượng cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hóa khác, được thực hiện dựa trên nguyên lý cung - cầu, sự bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm dần. 

Trong bối cảnh giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh theo quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 , nhiệm vụ Chiến lược đã đặt ra là giai đoạn 2011-2020 “giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP trong khoảng 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường”. Định hướng đến năm 2030 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường”. Định hướng đến năm 2050 “giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%”. Từ thực tiễn đó, ngành năng lượng cần phải có những giải pháp mang tính đột phá và quyết tâm lớn mới thực hiện được các yêu cầu đặt ra đối với sự đáp ứng nhu cầu năng lượng của nền kinh tế, muốn vậy cần có những giải pháp cơ bản, lâu dài. 

Theo đó, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh đề xuất một số giải pháp quan trọng mang tính khả thi cao đáp ứng nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới. Trước hết là phải phát huy tối đa những ưu thế sẵn có về nguồn tài nguyên nhiên liệu và năng lượng sẵn có của Việt Nam có tính cạnh tranh cao, không chỉ đối với thị trường trong nước mà kể cả với thị trường khu vực và thế giới mà Việt Nam có ưu thế. Đối với những nguồn năng lượng không có ưu thế, giá cả cao hơn so với nhập khẩu của các quốc gia khác, nên nhập khẩu. Chẳng hạn như than sản xuất điện hay điện năng, đảm bảo cán cân xuất nhập khẩu năng lượng cân bằng là tốt nhất, tiến tới xuất lớn hơn nhập. 

Về lộ trình, buộc phải giảm dần những nguồn nhiêu liệu phát thải khí nhà kính như than, xăng dầu và tăng dự trữ quốc gia đối với các nguồn nhiên liệu cạn kiệt, do vậy sẽ phải có cơ chế chính sách và khuyến khích nhiều hơn đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng tính trên giá trị sản phẩm đầu ra. Đồng thời, cần có cơ chế chính sách khuyến khích sử dụng ngày càng chiếm tỷ trọng cao đối với nguồn năng lượng tái tạo, trước hết là năng lượng gió, năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học. Trong bối cảnh hiện nay, do đầu tư công nghệ và chi phí lớn, nên sản phẩm năng lượng đầu ra của các loại năng lượng và nhiên liệu này còn cao, Nhà nước cần tiếp tục có chính sách trợ giá và giảm thuế để giảm gánh nặng cho các nhà đầu tư khai thác các dạng năng lượng tái tạo. 

Mặt khác, cần nâng cao nhận thức đối với người dân trong việc sử dụng và tiết kiệm năng lượng, phải trở thành văn hóa và ý thức tự nguyện, thói quen. Muốn làm được điều đó, hệ thống chính trị cần phải vào cuộc mạnh mẽ. Trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, cần phát huy tối đa công cụ kinh tế và cơ chế tài chính trong đầu tư, khai thác, và sử dụng các nguồn năng lượng hiệu quả và tiết kiệm, thêm vào đó là sử dụng các biện pháp điều hành và kiểm soát của Nhà nước, công cụ pháp luật cần được phát huy hiệu quả. Huy động nguồn lực đầu tư vào khai thác và sản xuất năng lượng theo nguyên lý thị trường, nhất là nguồn vốn nội lực. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam không phải thuộc nhóm nước cắt giảm khí nhà kính, nhưng thực hiện theo định hướng chung của thế giới. Chính vì vậy, đây là cơ hội để chúng ta huy động nguồn vốn ngoại lực đầu tư vào khai thác các nguồn năng lượng tái tạo. 

Tài nguyên nhiên liệu và năng lượng của Việt Nam đa dạng và có một số loại có tính cạnh tranh cao, đặc biệt là nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và sinh khối. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới, cụ thể là từ nay đến năm 2030, nước ta đã có những kịch bản về tăng trưởng kinh tế và dự báo nhu cầu năng lượng, đặt trong bối cảnh thể chế kinh tế thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt và thực thi hiệu quả chiến lược tăng trưởng xanh trong việc cắt giảm khí nhà kính, nên cần phát huy mạnh mẽ công cụ thị trường và tiềm năng sẵn có, nhất là nguồn nội lực để có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước và tiến tới có thể xuất khẩu những nguồn năng lượng có thế mạnh./. 
Văn Hào
TTXVN

Có thể bạn quan tâm

Đào tạo, cấp Giấy phép lái xe cho người yếu thế và đồng bào vùng biên

Đào tạo, cấp Giấy phép lái xe cho người yếu thế và đồng bào vùng biên

Ngày 12/12, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp với Trung tâm Đào tạo và sát hạch lái xe Tây Ninh tổ chức đào tạo và thi sát hạch cấp giấy phép lái xe mô tô (hạng A1) miễn phí cho 171 học viên là người dân có hoàn cảnh khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số 2 xã biên giới Phước Vinh và Long Thuận, tỉnh Tây Ninh. Đây không chỉ là hoạt động chuyên môn mà còn là trách nhiệm xã hội của lực lượng Công an tỉnh trong nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về giao thông.

Trao gửi yêu thương đến học sinh và người dân vùng lũ Gia Lai

Trao gửi yêu thương đến học sinh và người dân vùng lũ Gia Lai

Ngày 12/12, tại Điểm Trường Tiểu học Hùng Vương, Buôn Ma Giai, xã Phú Túc, tỉnh Gia Lai, chương trình “Gửi niềm tin - Trao hy vọng” do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp xã hội từ thiện và hỗ trợ phát triển cộng đồng Fly To Sky, nhóm từ thiện Fly To Sky (trực thuộc Trung tâm Tình nguyện Quốc gia - Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh) phối hợp với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Phú Túc tổ chức, đã mang đến nhiều phần quà thiết thực hỗ trợ học sinh và người dân bị ảnh hưởng bởi mưa lũ trên địa bàn.

Điểm tựa an sinh cho người lao động lúc khó khăn

Điểm tựa an sinh cho người lao động lúc khó khăn

Những năm qua, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã trở thành điểm tựa an sinh cho hàng nghìn lao động tại Lai Châu. Với sự chủ động, linh hoạt trong triển khai, nhiều lao động được hưởng quyền lợi, được chi trả, hỗ trợ tiền và học nghề… để có thể chuyển đổi việc làm thành công.

Biên phòng cửa khẩu Chi Ma kiểm soát chặt biên giới cửa khẩu

Biên phòng cửa khẩu Chi Ma kiểm soát chặt biên giới cửa khẩu

Thời điểm cuối năm, tình hình buôn lậu, xuất, nhập cảnh trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật biên giới luôn tiềm ẩn phức tạp, lực lượng Bộ đội Biên phòng cửa khẩu Chi Ma, tỉnh Lạng Sơn đang triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, tăng cường tuần tra kiểm soát liên tục 24/7, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vi phạm trên biên giới cửa khẩu, góp phần giữ vững chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Hoàn thiện khung pháp lý, bảo vệ quyền con người trong kỷ nguyên số

Hoàn thiện khung pháp lý, bảo vệ quyền con người trong kỷ nguyên số

Ngày 5/12, tại phường Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền, Cục Đối ngoại, Bộ Công an phối hợp với Viện Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học chủ đề "Quyền con người trong kỷ nguyên số - Lý luận và thực tiễn".

Tuyên truyền các thủ đoạn tội phạm mới cho đồng bào vùng biên

Tuyên truyền các thủ đoạn tội phạm mới cho đồng bào vùng biên

Ngày 5/12, tại bản Tá Miếu (xã Sín Thầu), Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên tổ chức chương trình điểm về tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy, mua bán người, buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026.

Nghệ thuật chiêng Mường được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2016.

Giữ hồn chiêng Mường giữa dòng chảy hiện đại

Đối với đồng bào dân tộc Mường, chiêng không chỉ là nhạc khí mà còn là thanh âm linh thiêng nhất trong đời sống tinh thần. Tiếng chiêng mang hồn rừng núi, là nhịp nối giữa con người và “thế giới siêu nhiên”. Từ lúc cất tiếng khóc chào đời đến khi trở về cõi Mường Ma, âm thanh ấy hiện diện trong cả không gian lẫn thời gian, len vào từng sinh hoạt và theo suốt cuộc đời mỗi người Mường.

Xây nhà ở phù hợp với truyền thống và thích ứng với thiên tai

Xây nhà ở phù hợp với truyền thống và thích ứng với thiên tai

Các trận bão lũ liên tiếp vào tháng 10 và 11 và đầu tháng 12/2025 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng gây thiệt hại lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Riêng về nhà ở, có gần 1.200 ngôi nhà, chủ yếu ở miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số bị hư hại.

Gia Lai: Tặng 1.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người dân có hoàn cảnh khó khăn

Gia Lai: Tặng 1.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người dân có hoàn cảnh khó khăn

Ngày 26/11, Bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai đã tổ chức trao tặng 1.000 thẻ bảo hiểm y tế cho người dân có hoàn cảnh khó khăn chưa tham gia bảo hiểm y tế tại phường Hoài Nhơn, Hoài Nhơn Bắc, Hoài Nhơn Đông, xã Vạn Đức, Hoài Ân, Kim Sơn, Ân Hảo từ nguồn kinh phí do Vietcombank chi nhánh Bình Định hỗ trợ.

Giúp người dân vùng biên dễ hiểu, dễ nhớ các thông tin pháp luật

Giúp người dân vùng biên dễ hiểu, dễ nhớ các thông tin pháp luật

Lạng Sơn có đường biên giới dài trên 231km, tiếp giáp Trung Quốc cùng nhiều cửa khẩu đang diễn ra hoạt động giao thương, phát triển kinh tế biên mậu nhưng cũng tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự vùng biên. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho cư dân vùng biên luôn được chính quyền và lực lượng chức năng xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Việc nắm vững kiến thức pháp luật đã giúp người dân nâng cao ý thức chấp hành, góp phần giữ vững an ninh biên giới và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Sinh kế bền vững, động lực xây dựng nông thôn mới ở miền núi Nghệ An

Sinh kế bền vững, động lực xây dựng nông thôn mới ở miền núi Nghệ An

Tỉnh Nghệ An đang khẳng định hướng đi đúng đắn trong công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 thông qua việc triển khai linh hoạt các dự án, đặc biệt là dự án Đa dạng hóa sinh kế, nhằm hỗ trợ người dân chuyển đổi từ thu nhập bấp bênh sang các mô hình sản xuất, chăn nuôi hiệu quả. Sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới đã giúp người dân thay đổi cách nghĩ, cách làm, và tạo động lực vươn lên làm giàu chính đáng.

Kỳ vọng từ nền tảng phát triển giáo dục bền vững vùng biên

Kỳ vọng từ nền tảng phát triển giáo dục bền vững vùng biên

Quảng Trị là một tỉnh nghèo trên vùng đất miền Trung đầy nắng và gió, thiên tai khắc nghiệt quanh năm. Nơi đây, tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số như: Bru - Vân Kiều, Tà Ôi, Pa Cô, Chứt... sinh sống tại các bản làng xa xôi, điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã tập trung triển khai nhiều chương trình, chính sách để hỗ trợ cuộc sống của người dân ngày càng đi lên.

Cách làm sáng tạo góp phần bảo đảm an ninh trật tự khu vực biên giới

Cách làm sáng tạo góp phần bảo đảm an ninh trật tự khu vực biên giới

Thực hiện Kế hoạch của Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa về mở đợt cao điểm thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo, Công an các xã khu vực miền núi trong tỉnh đã có nhiều cách làm sáng tạo, góp phần phòng ngừa tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự ngay tại cơ sở.

Bàn giải pháp thúc đẩy kết nối giao thương, mở rộng thị trường Tây Bắc

Bàn giải pháp thúc đẩy kết nối giao thương, mở rộng thị trường Tây Bắc

Chiều 14/11, Sở Tài chính và Sở Công Thương tỉnh Lai Châu phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) cùng Sở Công Thương các tỉnh vùng Tây Bắc tổ chức Hội nghị kết nối giao thương giữa nhà cung cấp khu vực Tây Bắc với các doanh nghiệp xuất khẩu và tổ chức xúc tiến thương mại năm 2025.

Trên 1.000 người dân khó khăn nơi biên giới được tặng thẻ bảo hiểm y tế

Trên 1.000 người dân khó khăn nơi biên giới được tặng thẻ bảo hiểm y tế

Hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” và Chương trình “Tặng thẻ bảo hiểm y tế cho người có hoàn cảnh khó khăn - Mang Tết ấm đến với người nghèo Xuân Bính Ngọ” do Bảo hiểm xã hội Việt Nam phát động, chiều 13/11, tại xã Ia Krái, Bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai đã trao thẻ bảo hiểm y tế cho trên 1.000 người dân có hoàn cảnh khó khăn.

Vốn đúng chỗ, hộ nghèo vươn lên làm kinh tế giỏi

Vốn đúng chỗ, hộ nghèo vươn lên làm kinh tế giỏi

Xác định nguồn vốn tín dụng chính sách ưu đãi là "đòn bẩy" hỗ trợ người dân vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn xóa đói giảm nghèo, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Thanh Hóa đã bám sát các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, nhanh chóng đưa nguồn vốn chính sách đến đúng đối tượng thụ hưởng. Nguồn vốn này không chỉ giúp người dân vùng cao có việc làm, tăng thu nhập mà còn góp phần thay đổi nhận thức, khơi dậy tinh thần vươn lên thoát nghèo bền vững.

Gia Lai linh động giải pháp thu thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sau bão số 13

Gia Lai linh động giải pháp thu thuế, hỗ trợ doanh nghiệp sau bão số 13

Nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh Gia Lai phục hồi sau ảnh hưởng của bão số 13, ngành thuế tỉnh Gia Lai đã ban hành văn bản hướng dẫn hàng loạt giải pháp hỗ trợ, gia hạn, miễn, giảm thuế đối với các tổ chức, doanh nghiệp và hộ kinh doanh trên địa bàn chịu ảnh hưởng của thiên tai.

Lâm Đồng đầu tư hạ tầng thiết yếu, hướng tới giảm nghèo bền vững

Lâm Đồng đầu tư hạ tầng thiết yếu, hướng tới giảm nghèo bền vững

Từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, các địa phương tỉnh Lâm Đồng đã tập trung đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng tại các xã vùng khó khăn. Mục tiêu nhằm hỗ trợ người dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện các chỉ số về y tế, giáo dục, việc làm…, hướng tới thoát nghèo bền vững.