Ngày 5/12, tại phường Lào Cai, tỉnh Lào Cai, Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền, Cục Đối ngoại, Bộ Công an phối hợp với Viện Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học chủ đề "Quyền con người trong kỷ nguyên số - Lý luận và thực tiễn".
Đây là sự kiện nằm trong chuỗi hoạt động hướng tới kỷ niệm 77 năm Ngày Nhân quyền thế giới (10/12/1948 - 10/12/2025), diễn ra trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ; chuyển đổi số trở thành xu thế tất yếu, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có vấn đề đảm bảo và thúc đẩy quyền con người.
Phát biểu khai mạc, Đại tá Nguyễn Thị Thanh Hương, Trưởng phòng Chuyên đề Nhân quyền, Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Nhân quyền nêu rõ: Quyền con người trong kỷ nguyên số là vấn đề mới, mang tính thời sự, đồng thời là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn cần được nghiên cứu, thảo luận thấu đáo, làm cơ sở tham mưu cho Ban Chỉ đạo Nhân quyền những giải pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong kỷ nguyên số theo đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước. Đây cũng là một trong 8 ưu tiên của Việt Nam trong nhiệm kỳ thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (2026-2028), đó là "bảo đảm quyền con người trong biến đổi khí hậu và chuyển đổi số".
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận làm rõ thách thức, cơ hội cũng như đề xuất giải pháp lý luận và thực tiễn trong việc đảm bảo quyền con người trong bối cảnh mới; trong đó, nhấn mạnh đến yêu cầu cấp thiết phải hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ quyền con người trong môi trường số.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tường Duy Kiên, Viện trưởng Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phổ cập Internet cao (trên 70% dân số sử dụng Internet), tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin, giáo dục và các dịch vụ công. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng này cũng làm gia tăng rủi ro về việc thu thập và xử lý dữ liệu cá nhân trên quy mô lớn, mặc dù đã có những bước tiến quan trọng với việc ban hành quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, khung pháp lý tổng thể vẫn còn tương đối mới và cần thời gian để định hình và củng cố cơ chế thực thi.
Nhằm ứng phó các thách thức trong kỷ nguyên số, Việt Nam cần tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng hội nhập với các chuẩn mực quốc tế về quyền số, trên cơ sở Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân số 91/2025/QH15 đã được Quốc hội ban hành. Đó là, hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân; thiết lập cơ chế điều tiết và trách nhiệm; xây dựng Bộ quy tắc đạo đức cho ứng dụng trí tuệ nhân tạo; trong đó, cần có các quy định pháp lý rõ ràng buộc các nền tảng mạng xã hội lớn phải thực hiện trách nhiệm giải trình đối với nội dung lan truyền, đặc biệt là tin giả và nội dung bất hợp pháp.
Tiến sĩ Trần Thị Hồng Hạnh, Viện Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định, một trong những yêu cầu cấp thiết nhất trong bối cảnh chuyển đổi số là hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh trên không gian mạng, dựa trên nền tảng Hiến pháp năm 2013 và các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý tổng thể, đồng bộ các luật về quyền con người, dữ liệu cá nhân và an ninh mạng bảo đảm quyền kiểm soát dữ liệu cá nhân của người dân, bao gồm quyền quản lý, xóa và hạn chế chia sẻ thông tin. Đồng thời, cần tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp công nghệ, giúp người dân giám sát và phản hồi khi quyền bị xâm phạm.
Chia sẻ về các công nghệ nhận dạng khuôn mặt và giám sát thông minh cùng với mức độ rủi ro đối với quyền riêng tư và các quyền con người khác, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Diệu, Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Việt Nam đang có một khởi đầu pháp lý vững chắc với Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân, đặc biệt là việc công nhận sinh trắc học là “dữ liệu nhạy cảm". Đây là một nền tảng quan trọng, cho phép Việt Nam cơ hội đi trước và không lặp lại sai lầm của các quốc gia khác.
Bằng cách chủ động giải quyết các “khoảng trống” pháp lý và xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo chủ quyền thuật toán, Việt Nam có thể xây dựng một mô hình quản lý AI và giám sát thông minh cân bằng, vừa đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự xã hội, vừa bảo vệ quyền riêng tư và các quyền con người cơ bản.
Theo Đại tá Hà Văn Bắc, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an, trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với sự gia tăng mạnh của tội phạm mạng với khoảng 659.000 sự cố an ninh năm 2024 và hơn 6,5 triệu tài khoản bị đánh cắp trong quý III/2025, việc tăng cường biện pháp kỹ thuật là tất yếu. Tuy nhiên, điều cốt lõi không nằm ở phạm vi can thiệp mà ở cách thức thiết kế và vận hành các biện pháp trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, tuân thủ bốn tiêu chí: tính cần thiết, tính tương xứng, minh bạch có kiểm soát và trách nhiệm giải trình. Đây là những tiêu chí đã được thừa nhận trong thực tiễn quốc tế và phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013, Luật An ninh mạng, Nghị định 13/2023/NĐ-CP và Công ước Hà Nội về chống tội phạm mạng.
Khi được thực thi đồng bộ, các tiêu chí trên không chỉ giúp bảo đảm tính chính danh của hoạt động bảo vệ an ninh mạng mà còn tạo động lực thúc đẩy hợp tác giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người dân, tăng cường hiệu quả điều tra - ứng phó - phục hồi sự cố. Điều này cho phép Việt Nam vừa bảo vệ vững chắc chủ quyền số, vừa tạo dựng môi trường mạng “an toàn - nhân văn - thượng tôn pháp luật”, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên số./.