Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho

Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho

Vùng đất Ninh Thuận vốn sở hữu thời tiết đầy nắng và gió, gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Thế nhưng cũng chính điều kiện thời tiết này lại tạo điều kiện thuận lợi cho cây nho phát triển. Dựa trên thế mạnh của vùng đất đối với cây nho, tỉnh Ninh Thuận đã phát huy lợi thế, sẵn sàng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho, xây dựng thương hiệu nho Ninh Thuận để tăng cạnh tranh với các thị trường.

Nâng chất lượng nho tươi bằng công nghệ cao

Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ nho tươi của các thị trường trong nước và quốc tế rất lớn, đặc biệt là nho chất lượng cao, giòn, ngọt, thơm nhẹ càng được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn. Chính vì vậy, sản xuất nho giống mới và mở rộng sản xuất đang được tỉnh Ninh Thuận đẩy mạnh.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, cả tỉnh hiện có 1.300 ha sản xuất nho tươi và nho chế biến rượu, sản lượng cung ứng ra thị trường khoảng 30.000 tấn/năm; trong đó, nho ăn trái chiếm 80% sản lượng này.

Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho ảnh 1Người dân xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước chăm sóc vườn nho rượu giống NH02-90 (nho Syrah). Ảnh: Nguyễn Thành - TTXVN

Nắm bắt được xu thế tiêu dùng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận đã cùng Viện Nghiên cứu Bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố (Ninh Thuận) phát triển nhiều loại giống nho chất lượng cao mới như NH01-152, NH01-26, Black Queen 193… để có thể giúp người trồng nho phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập so với trước đây.

Thế nhưng để sản xuất được các giống nho này đòi hỏi người trồng phải áp dụng công nghệ vào quá trình chăm sóc. Có như vậy, cây nho mới đủ điều kiện phát triển và cho chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh với nho nhập khẩu.

Ông Phạm Văn Phước, Giám đốc Trung tâm tư vấn và Phát triển công nghệ, Viện Nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, Ninh Thuận chia sẻ, sản xuất nho công nghệ cao có sử dụng giàn chữ y, mái che mưa, lưới chắn côn trùng, chắn gió di động. Mặc dù chi phí sử dụng cho cách sản xuất mới cao gấp 3-4 lần so với trồng nho kiểu cũ, nhưng giúp giảm hẳn sâu bệnh hại, giảm kinh phí diệt sâu bệnh hại trên cây nho.

Đặc biệt, sử dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm nên giảm chi phí công tưới nước, tiết kiệm được lượng phân bón vì phân bón đã hòa theo nước. Sản xuất theo kiểu giàn mới sẽ giúp sản xuất được 2 vụ/năm mà không bị thời tiết bất thường tác động.

Trong quá trình sản xuất, người trồng phải cân đối giữa năng suất và chất lượng nho vì nếu để vườn phát triển năng suất thì chất lượng trái nho sẽ không như mong muốn. Khi áp dụng bón phân phải cân đối giữa đạm và kali để trái nho phát triển màu như mong muốn.

Gia đình anh Phạm Thế Anh tiên phong trồng giống nho NH01-26 ở thôn Thái An, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải cho biết, qua hơn 2 năm trồng giống nho mới này, phù hợp với điều kiện canh tác hữu cơ, thời gian sinh trưởng ngắn ngày khoảng 8 đến 10 tháng, người trồng có thể canh tác 3 vụ/năm, năng suất từ 12 tấn đến 18 tấn/ha, khả năng ra hoa đậu quả tốt, gia đình anh mở rộng diện tích lên 3.000 m2. Đây là loại nho có lá dày nhiều lông, có khả năng chống chịu với các loại sâu bệnh, nhất là bệnh thán thư, mốc sương. Giá bán cao gấp nhiều lần so với giống nho đỏ truyền thống.

Trong thời gian tới, Viện cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu ra giống nho mới chất lượng cao, cùng với ứng dụng kỹ thuật vào quá trình canh tác, ứng dụng sản xuất hữu cơ…, doanh nghiệp lớn có thể cơ giới hoá, tự động hoá, giảm lao động trong khâu sản xuất, nâng cao hiệu quả khi sản xuất quy mô lớn, giúp xây dựng và khẳng định thương hiệu nho Ninh Thuận, ông Phạm Văn Phước, Giám đốc Trung tâm tư vấn và Phát triển công nghệ, Viện Nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, Ninh Thuận cho biết thêm.

Theo TS. Phan Công Kiên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố sẽ tuyên truyền nhân rộng giống thích ứng thời ứng, giúp chuyển giao tiên bộ khoa học kỹ thuật mới trong việc thay đổi giàn chữ y với vật liệu nông dân hiện có, chuyển giao giải pháp đồng bộ để nông dân ứng dụng có hiệu quả, nâng cao giá trị sản phẩm.

Giá bán ra cao hơn canh tác truyền thống khoảng 20%, lợi nhuận vượt 35% so với canh tác thông thường, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với nho nhập khẩu. Cách canh tác này theo tiêu chí an toàn, GlobalGAP, đàm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Cuối năm 2022 có thể nhân rộng và phát triển đại trà.

Thêm giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm nho

Sản phẩm nho Ninh Thuận được người trồng nho liên kết sản xuất để có thể nâng cao giá trị cho trái nho. Với sản lượng cung ứng thị trường 30.000 tấn/năm, có 20% sản lượng dùng để cung ứng cho chế biến các sản phẩm nho như nước nho lên men, mật nho, nho sấy khô, rượu nho…

Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho ảnh 2Sản phẩm nho xanh của Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại nông sản Thái Thuận – Ninh Thuận đã được xử lý sạch trên dây chuyền công nghệ hiện đại của dự án cấp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ảnh: Nguyễn Thành - TTXVN

Hiện các sản phẩm nho chế biến cũng được UBND tỉnh Ninh Thuận chỉ đạo các địa phương mở rộng sản xuất, đưa vào chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) của tỉnh. Các sản phẩm nho Ninh Thuận hiện là 1 trong 62 sản phẩm OCOP được nhiều người tiêu dùng nội địa biết đến.

Ông Nguyễn Đoàn Thiện Phú, phụ trách kinh doanh Hợp tác xã EVERGREEN chia sẻ, bên cạnh phát triển sản phẩm nho tươi, Hợp tác xã EVERGREEN còn có nước nho lên men đỏ và xanh, nho sấy đỏ và xanh, giấm nho được sản xuất theo quy trình khép kín an toàn thực phẩm.

Tất cả các sản phẩm này đều được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận cho hợp tác xã và chỉ dẫn địa lý nho Ninh Thuận. Hợp tác xã cũng áp dụng dán tem truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Nhiều đơn vị đã ký kết tiêu thụ sản phẩm nho của hợp tác xã, đưa vào hệ thống siêu thị trong và ngoài tỉnh Ninh Thuận với sản lượng 5 tấn/tháng, giúp các thành viên nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.

Sản xuất và chế biến nho làm rượu hiện đang là nhu cầu rất lớn của thị trường trong nước. Khi đã đạt được chất lượng có thể cạnh tranh với một số sản phẩm rượu nho nhập khẩu, đây là cơ hội lớn để sản xuất nho Ninh Thuận phát triển hơn nữa.

Ông Thạch Vũ Vương, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước cho biết, gia đình trồng 1 ha nho Syrah liên kết sản xuất với công ty chế biến rượu vang nho tại Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng). Chi phí đầu tư ban đầu cho 1 sào nho Syrah khoảng trên 40 triệu đồng, tương đương so với trồng các giống nho khác. Trồng nho rượu không đòi hỏi kỹ thuật quá cao, tuy nhiên phải tuân thủ kỹ thuật canh tác để đạt sản lượng và chất lượng cao. Vườn nho Syrah cho thu hoạch 3 vụ/năm, sản lượng bình quân khoảng 15 tấn/ha/vụ.

Nho rượu tùy theo độ Brix (độ ngọt, chỉ số quan trọng trong việc nâng cao chất lượng các loại rượu vang trong quá trình ủ, lên men) được công ty bao tiêu thu mua với giá tối thiểu 15.000 đồng/kg, nếu hàm lượng độ Brix càng cao (hơn 18% là tốt nhất) thì giá có thể tăng lên 1,5 lần và thậm chí hơn. Lấy giá bán bình quân 15.000 đồng/kg, vườn nho cho doanh thu khoảng 225 triệu đồng/vụ.

Theo ông Đặng Kim Cương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, để nâng cao giá trị sản xuất, ngành nông nghiệp tỉnh Ninh Thuận tiếp tục phối hợp các viện, cơ quan đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, chọn tạo những giống nho mới bao gồm nho tươi và nho ủ rượu có sức đề kháng sâu bệnh, năng suất cao, chất lượng tốt cung cấp kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng.

Hiện nay, bên cạnh cung cấp sản phẩm nho tươi, tỉnh tập trung nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm, chú trọng đến các sản phẩm chế biến sâu từ quả nho. Để thực hiện, ngành nông nghiệp phối hợp các địa phương tiếp tục rà soát, lập quy hoạch phát triển cây nho, quy hoạch vùng nguyên liệu trồng nho rượu để tạo nguồn nguyên liệu ổn định và lâu dài cho sản xuất công nghiệp. Đồng thời, tăng cường huy động các nguồn lực, dự án hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện cho người trồng nho liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã cùng tham gia đầu tư, sản xuất nho rượu theo chuỗi giá trị.

Thử - Nhung - Thành

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.