Đắk Lắk vài nét tổng quan

Đắk Lắk vài nét tổng quan
1. Điều kiện tự nhiên

Vị trí địa lý


Tỉnh Đắk Lắk, có diện tích 13.125,37 km2, nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107o28'57" đến 108o59'37" độ kinh Đông và từ 12o9'45"  đến 13o25'06" độ vĩ Bắc, có độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, nằm cách Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km.

-    Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai

-    Phía Đông giáp Phú YênKhánh Hòa

-    Phía Nam giáp Lâm ĐồngĐắk Nông

-    Phía Tây giáp Campuchia.

Địa hình

Địa hình của tỉnh rất đa dạng: nằm ở phía Tây và cuối dãy Trường Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven theo các sông chính. Địa hình của tỉnh có hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc.

Khí hậu

Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía Tây Bắc có khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa khô; vùng phía Đông và phía Nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Khí hậu sinh thái nông nghiệp của tỉnh được chia ra thành 6 tiểu vùng:
- Tiểu vùng bình nguyên Ea Súp chiếm 28,43% diện tích tự nhiên.
- Tiểu vùng cao nguyên Buôn Mê Thuột – Ea H’Leo chiếm 16,17% diện tích tự nhiên.
- Tiểu vùng đồi núi và cao nguyên M’Đrắk chiếm 15,82% diện tích tự nhiên.
- Tiểu vùng đất ven sông Krông Ana – Sêrêpôk chiếm 14,51% diện tích tự nhiên.
- Tiểu vùng núi cao Chư Yang Sin chiếm 3,98% diện tích tự nhiên.
- Tiểu vùng núi Rlang Dja chiếm 3,88% diện tích tự nhiên.

Nhìn chung khí hậu khác nhau giữa các dạng địa hình và giảm dần theo độ cao: vùng dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400 – 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.

Khí hậu có 02 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.

Tài nguyên đất

Một trong những tài nguyên lớn được thiên nhiên ưu đãi cho Đắk Lắk đó là tài nguyên đất. Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 13.085 km2, trong đó chủ yếu là nhóm đất xám, đất đỏ bazan và một số nhóm khác như: đất phù sa, đất gley, đất đen.

Các đất hình thành từ đá bazan có độ phì khá cao (pH/H2O từ trung tính đến chua, đạm và lân tổng số khá). Sự đồng nhất cao giữa độ phì nhiêu tự nhiên và độ phì nhiêu thực tế của các nhóm đất và loại đất, được phân bố trên cao nguyên Buôn Ma Thuột trải dài khoảng 90 km theo hướng đông bắc - tây nam và rộng khoảng 70 km. Phía bắc cao nguyên này (Ea H’Leo) cao gần 800 m, phía nam cao 400 m, càng về phía tây chỉ còn 300 m, bề mặt cao nguyên rất bằng phẳng chỉ còn điểm một vài đồi núi.

- Nhóm đất phù sa (Fuvisols):
Được hình thành và phân bố tập trung ven các sông suối trong tỉnh. Tính chất của loại đất này phụ thuộc vào sản phẩm phong hoá của mẫu chất..

- Nhóm đất Gley (Gleysols):
Phân bố tập trung ở các khu vực thấp trũng thuộc các huyện Lắk, Krông Ana và Krông Bông.

- Nhóm đất xám (Acrisols):
Là nhóm lớn nhất trong số các nhóm đất có mặt tại Đắk Lắk, phân bố ở hầu hết các huyện.

- Nhóm đất đỏ (Ferrasol, trong đó chủ yếu là đất đỏ bazan).

Là nhóm đất chiếm diện tích lớn thứ hai (sau đất xám) chiếm tới 55,6% diện tích đất đỏ bazan toàn Tây Nguyên. Đất đỏ bazan còn có tính chất cơ lý tốt, kết cấu viên cục độ xốp bình quân 62 - 65%, khả năng giữ nước và hấp thu dinh dưỡng cao... rất thích hợp với các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu... và nhiều loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày khác. Đây là một lợi thế rất quan trọng về điều kiện phát triển nông nghiệp của tỉnh Đắk Lắk.

Tài nguyên nước

- Nguồn nước mặt: Với những đặc điểm về khí hậu-thủy văn và với 3 hệ thống sông ngòi phân bố tương đối đều trên lãnh thổ (hệ thống sông Srepok; hệ thống sông Ba, hệ thống sông Đồng Nai) cùng với hàng trăm hồ chứa và 833 con suối có độ dài trên 10 km, đã tạo cho Đắk Lắk một mạng lưới sông hồ khá dày đặc.

- Nguồn nước ngầm: Tập trung chủ yếu trong các thành tạo Bazan & Trầm tích Neogen đệ tứ, tồn tại chủ yếu dưới 2 dạng: Nước lỗ hổng và nước khe nứt. Tổng trữ lượng ước tính:

Chất lượng nước thuộc loại nước siêu nhạt, độ khoáng hoá M= 0,1 - 0,5, pH = 7-9. Loại hình hoá học thường là Bicacbonat Clorua - Magie, Can xi hay Natri.

Tài nguyên rừng

Sau khi chia tách tỉnh, diện tích đất có rừng của Đắk Lắk là 608.886,2 ha, trong đó rừng tự nhiên là 594.488,9 ha, rừng trồng là 14.397,3 ha. Rừng Đắk Lắk được phân bố đều khắp ở các huyện trong tỉnh, đặc biệt là hành lang biên giới của tỉnh giáp Campuchia. Rừng Đắk Lắk phong phú và đa dạng, thường có kết cấu 3 tầng: cây gỗ, có tác dụng phòng hộ cao; có nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học; phân bố trong điều kiện lập địa thuận lợi, nên rừng tái sinh có mật độ khá lớn. Do đó rừng có vai trò quan trọng trong phòng chống xói mòn đất, điều tiết nguồn nước và hạn chế thiên tai. Rừng Đắk Lắk có nhiều loại động vật quý hiếm phân bổ chủ yếu ở vườn Quốc gia Yok Đôn và các khu bảo tồn Nam Kar, Chư Yangsin... có nhiều loại động vật quý hiếm ghi trong sách đỏ nước ta và có loại được ghi trong sách đỏ thế giới. Rừng và đất lâm nghiệp có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH của tỉnh.

Tài nguyên khoáng sản

Đắk Lắk không những được thiên nhiên ưu đãi về tài nguyên đất, rừng mà còn rất phong phú và đa dạng về các loại hình khoáng sản. Trên địa bàn tỉnh có nhiều mỏ khoáng sản với trữ lượng khác nhau, nhiều loại quý hiếm. Như sét cao lanh (ở M’Drắk, Buôn Ma Thuột - trên 60 triệu tấn), sét gạch ngói (Krông Ana, M’Drắk, Buôn Ma Thuột - trên 50 triệu tấn), vàng (Ea Kar), chì (Ea H’Leo), phốt pho (Buôn Đôn), Than Bùn (Cư M’Gar), đá quý (Opan, Jectit), đá ốp lát, đá xây dựng, cát xây dựng... phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh.

2. Dân cư
 
Cộng đồng dân cư Đắk Lắk gồm 47 dân tộc, trong đó chủ yếu là các dân tộc:
- Dân tộc Kinh
- Dân tộc Ê Đê
- Dân tộc M'Nông
- Dân tộc Gia Rai
- Dân tộc Tày
- Dân tộc Thái
- Dân tộc Nùng
- Dân tộc Mông
- Dân tộc Dao

3. Lịch sử hình thành và phát triển

Buôn Ma Thuột là thành phố tỉnh lị của tỉnh Đắk Lắk và là thành phố lớn nhất ở vùng Tây Nguyên Việt Nam.

Buôn Ma Thuột gốc tiếng Ê Đê, nghĩa là "bản hoặc làng của Ama Thuột", nó xuất phát từ tên gọi buôn của A ma Thuột - tên một vị tù trưởng giàu có và quyền uy nhất vùng; để rồi từ đây hình thành nên các buôn làng xung quanh, phát triển thành thành phố Buôn Ma Thuột ngày hôm nay.

Từ giữa thế kỷ XII, đồng bào dân tộc ở miền Trung Tây Nguyên đã từng đứng dậy đấu tranh chống sự xâm lược của Chiêm Thành. Đến năm 1470, khi Chiêm Thành xâm lấn biên giới phía nam của nước Đại Việt, bị quan quân nhà Lê đánh tan. Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, nhà Lê một mặt tôn trọng đường ranh giới giữa vùng cư trú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên với đồng bằng; mặt khác đã có những chính sách nhằm duy trì mối quan hệ giữa người Kinh và đồng bào các dân tộc thiểu số.

Năm 1540, khi Bùi Tá Hán được triều đình cử làm Tuần Tiết xứ Nam Ngãi, kiêm cả các vùng dân tộc miền núi phía Tây. Ông đã cho di dân lên lập ấp trên miền núi, mở mang buôn bán giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số, tiến cử các vị tù, tộc trưởng ở địa phương và tấn phong vua Hỏa Xá và Thủy Xá. Từ đó cho đến các đời vua nhà Nguyễn sau này, địa bàn Tây Nguyên-Daklak được gọi là trấn Man, do triều đình gián tiếp quản lý. Về hành chính, trấn Man chia thành 4 nguyên và 5 đạo và về quân sự, nhà Nguyễn lập ra một số đồn lính, tiến hành tuần tra, canh phòng biên giới và ngăn chặn sự xâm lược của quân Xiêm.

Vào những năm cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đã đẩy mạnh các họat động do thám, nắm tình hình dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, nhằm phục vụ cho âm mưu xâm lược Tây Nguyên, Đắk Lắk. Đến năm 1898, chúng tập trung lực lượng đánh chiếm Buôn Đôn và lần lượt mở rộng chiến tranh đánh chiếm toàn bộ cao nguyên Đắk Lắk.

Sau khi chiếm Đắk Lắk, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy thống trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk vào năm 1904 theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương. Chúng chia Đắk Lắk làm 5 quận, áp đặt chế độ trực trị, thực hiện chính sách "chia để trị". Nhưng cũng chính từ sự áp bức, bóc lột hà khắc đó, đồng bào các dân tộc Đắk Lắk đã liên tục và anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của các vị Tù trưởng. Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong tỉnh liên tục nổ ra các cuộc khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang; như cuộc khởi nghĩa của Ama Jhao (1890-1904), cuộc đấu tranh của N’Trang Gưh (1900 -1914), cuộc khởi nghĩa của Oi H’Mai (1903 - 1909. Tiêu biểu hơn cả là cuộc nổi dậy của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa này kéo dài 23 năm (1912-1935) lôi cuốn đồng bào các dân tộc, không chỉ ở cao nguyên Dak Nông, mà cả Tây Nguyên và Cam pu chia hưởng ứng.

Cùng với các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang do các vị tù trưởng lãnh đạo, trong tỉnh cũng đã xuất hiện một số phong trào đấu tranh chính trị hợp pháp của tầng lớp công chức, viên chức, trí thức, học sinh chống chính sách chia để trị của thực dân Pháp, chống chính sách ngu dân, khinh miệt đồng bào các dân tộc bản xứ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh do hai giáo chức yêu nước người Ê đê là Y Jút và Y út lãnh đạo (1925 - 1926).

Cũng trong thời kỳ này, do chính sách lập đồn điền khai thác thuộc địa, ở Đắk Lắk đã xuất hiện một tầng lớp công nhân làm thuê cho các đồn điền bót lột và hành hạ. Để chống lại sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, công nhân các đồn điền đã nhiều lần tổ chức các cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của công nhân thời kỳ này là cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Mai ô (Maillot) năm 1927, cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền Rossi, CHPI năm 1933, công nhân cầu đường Buôn Hồ 1935 và sau này là công nhân đồn điền CADA...

Khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đi vào giai đọan kết thúc, nhất là sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, tình hình phong trào Cách mạng trong tỉnh phát triển sôi nổi. Các tổ chức đòan thể, các Hội quần chúng lần lượt ra đời, lôi cuốn lực lượng công nông, trí thức, thanh niên, phụ nữ tham gia họat động Việt Minh. Ngày 24 tháng 8 năm 1945, sau cuộc khởi nghĩa ở đồn điền CADA, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền nổ ra thắng lợi ở Buôn Ma Thuột: hàng vạn quần chúng đã đồng lọat đứng lên ủng hộ ủy ban khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập chính quyền cách mạng, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và nhân dân làm chủ vận mệnh của mình.

Sau khi xóa bỏ bộ máy cai trị của thực dân phát xít, đồng bào các dân tộc đã đoàn kết, chung sức chung lòng bắt tay xây dựng chế độ mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và ủy ban Việt Minh, nhân dân Đắk Lắk hăng hái tham gia củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, chống giặc đói, giặc dốt, thực hiện các quyền và nghĩa vụ thiêng liêng mà cách mạng đã mang lại.

Ngày 30 tháng 12 năm 1945 quân đội Pháp quay lại xâm lược lần thứ hai. Quân dân Buôn Ma Thuột và quân dân các dân tộc trong tỉnh đã đứng dậy đấu tranh. Cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ và ác liệt cuối cùng đã giành được thắng lợi.

Nhưng khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, với âm mưu xâm chiếm miền Nam chia cắt lâu dài đất nước ta. Cùng với nhân dân cả nước đồng bào các dân tộc Đắk Lắk tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu chống lại những kẻ thù nguy hiểm hơn, độc ác hơn đó là đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai.

Trong hơn 20 năm chiến chiếm đóng, đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai đã tập trung biết bao tiềm lực quân sự và chính trị, nhằm xây dựng Đắk Lắk thành một địa bàn chiến lược trọng yếu, với nhiều thủ đoạn hòng đè bẹp ý chí cách mạng của đồng bào các dân tộc Đắk Lắk. Nhưng vượt lên trên mọi hy sinh tổn thất to lớn và nặng nề nhất, quân dân các dân tộc đã kề vai sát cánh bên nhau, bền bĩ đấu tranh, lần lượt đập tan các âm mưu, thủ đọan của kẻ thù, lập nên những chiến công oanh liệt: đồng khởi phá kềm 1960-1961, phá ấp giành dân giải phóng nông thôn 1964-1965, tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu thân 1968, đánh bại chương trình bình định cấp tốc của Mỹ Ngụy 1969-1972. Cuối cùng đã làm nên chiến thắng Buôn Ma Thuột (Ngày 10/03/1975), mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

4. Tiềm năng văn hóa - du lịch

Đắk Lắk là tỉnh trung tâm của vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển KT-XH, trong đó hoạt động du lịch có đủ tiềm năng để đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Với đặc điểm địa lý của một vùng đất cao nguyên quy tụ 47 dân tộc và tài nguyên du lịch đa dạng, Đắk Lắk được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hoá của nhiều dân tộc trong tỉnh như hồ Lắk, cụm thác Gia Long – Dray Sap, cụm du lịch Buôn Đôn, thác Krông Kma, Diệu Thanh, Tiên Nữ… bên cạnh các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Chư Yang Sin, Easo…

Toàn tỉnh có 23 di tích lịch sử cách mạng, 02 di tích lịch sử văn hoá, 13 di tích kiến trúc nghệ thuật, 8 di tích khảo cổ, 71 di tích thắng cảnh, 25 danh lam thắng cảnh. Có 9 di tích được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận di tích quốc gia, Bảo tàng Đắk Lắk có hơn 8.000 hiện vật văn hoá lịch sử.


Đến Đắk Lắk là đến với vùng đất có nhiều rừng núi, sông hồ và những thác nước hùng vĩ, hòa cùng không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên – một “Kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể” của nhân loại. Cùng với nét độc đáo trong văn hóa, Đắk Lắk còn là vùng đất của những lễ hội khá đặc trưng đã được du khách trong và ngoài nước biết đến như: Lễ hội đua voi; Lễ hội văn hóa Cồng Chiêng; Lễ cúng bến nước; Lễ bỏ mả…của đồng bào các dân tộc sinh sống trên mảnh đất này. Đặc biệt gần đây Lễ hội cà phê Buôn Ma Thuột đã được Chính phủ công nhận là Lễ hội cấp Quốc gia được tổ chức 02 năm một lần vào tháng 3.
Theo daklak.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới

Nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới

Sau khi nghiên cứu dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, lãnh đạo, cán bộ, đảng viên tỉnh Sơn La đều đồng tình, nhất trí cao với bố cục, nội dung; khẳng định dự thảo được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, khoa học, có chất lượng cao, thể hiện rõ tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược và khát vọng phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Đột phá theo Nghị quyết 57: Thúc đẩy nhận thức về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Đột phá theo Nghị quyết 57: Thúc đẩy nhận thức về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Chiều 24/10, tại xã Măng Đen (Quảng Ngãi), Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc Ngày hội Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số năm 2025 với chủ đề “Hội tụ nguồn lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - Vì một Quảng Ngãi phát triển nhanh và bền vững”.

Trung thu muộn cho trẻ em vùng cao

Trung thu muộn cho trẻ em vùng cao

Tại ngôi trường vùng cao của tỉnh Thái Nguyên – Trường Tiểu học Đồng Phúc – nơi nhiều năm liên tiếp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các đợt bão lớn. Trong hai năm 2024 và 2025, xã Đồng Phúc bị tàn phá bởi 3 cơn bão: Yagi, số 5 và số 11, gây sạt lở nghiêm trọng, đường sá bị chia cắt khiến nhà trường không thể khai giảng đúng lịch như các nơi khác. Học sinh nơi đây phải nhập học muộn hơn một tháng so với cả nước.

Chính sách tín dụng ưu đãi tiếp sức học sinh, sinh viên vùng biên

Chính sách tín dụng ưu đãi tiếp sức học sinh, sinh viên vùng biên

Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Bù Gia Mập (tỉnh Đồng Nai) đã nhanh chóng triển khai Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán.

Thanh Hóa: Khẩn trương thi công các công trình, dự án phòng, chống thiên tai

Thanh Hóa: Khẩn trương thi công các công trình, dự án phòng, chống thiên tai

Hiện, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có khoảng 200 công trình ứng phó với mưa, lũ đang được thi công nhằm đưa vào sử dụng phục vụ cho công tác phòng, chống thiên tai. Ngay sau khi cơn bão số 10, 11 đi qua, các đơn vị thi công đã huy động máy móc, nhân lực để khẩn trương thi công các hạng mục còn lại của công trình, phấn đấu hoàn thành toàn bộ dự án trong năm 2025.

Nhiều xã vùng núi ở miền Trung đối mặt nguy cơ sạt lở đất đá

Nhiều xã vùng núi ở miền Trung đối mặt nguy cơ sạt lở đất đá

Sau khi cơn bão số 12 đi qua, mặc dù mưa đã ngớt, nhưng các xã miền núi ở miền Trung vẫn đang phải đối mặt với nguy cơ sạt lở đất đá tiềm ẩn do lượng nước mà bão trút xuống làm cho đất bị “ngấm nước”, kết cấu yếu. Chính quyền và người dân địa phương đang chủ động triển khai các biện pháp ứng phó để đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản trước nguy cơ xảy ra sạt lở đất đá.

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia

Từ ngày 22/10, tỉnh Lâm Đồng bắt đầu triển khai thực hiện Kế hoạch Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030. Kế hoạch nhằm xây dựng, phát triển hạ tầng dữ liệu đồng bộ, thống nhất, đảm bảo khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu thông suốt giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương, tạo nền tảng cho phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Cà Mau: Xây dựng thương hiệu cây đặc sản giúp nông dân tăng thu nhập

Tại tỉnh Cà Mau, có một thời năn bộp được xem là loài cỏ dại ngự trị trên các cánh đồng, nông dân ai nhìn thấy cũng đều thở dài ngao ngán, vì tốn rất nhiều công sức để phá bỏ, cải tạo trồng lúa. Nhưng đó là câu chuyện của ngày trước, năn bộp giờ đây đã được trồng, chăm sóc, xây dựng thương hiệu sản phẩm OCOP mang lại thu nhập cho nông dân cao hơn hẳn so với trồng lúa.

Sạt lở bờ sông Thao diễn biến phức tạp

Sạt lở bờ sông Thao diễn biến phức tạp

Theo ghi nhận của phóng viên ngày 22/10, trên tuyến đê hữu sông Thao, thuộc địa phận khu 9 đến khu 11 xã Tam Nông (Phú Thọ), tình trạng sạt lở, sụt trượt mái bờ sông đang diễn biến ngày càng phức tạp, đe dọa an toàn tuyến đê, đất sản xuất và khu dân cư ven sông.

Nối dài những căn nhà mơ ước cho người dân vùng biên Quảng Trực, Lâm Đồng

Nối dài những căn nhà mơ ước cho người dân vùng biên Quảng Trực, Lâm Đồng

Dù tỉnh Lâm Đồng đã hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, nhưng việc hiện thực hóa những căn nhà mơ ước của người dân xã biên giới Quảng Trực vẫn được “nối dài”. Thông qua chương trình hỗ trợ xóa nhà tạm do Công an tỉnh Lâm Đồng triển khai, nhiều hộ dân đã có nơi ở ổn định, thêm động lực vươn lên phát triển kinh tế, góp phần giữ vững an ninh, trật tự nơi biên cương của Tổ quốc.

Lễ dâng y Kathina 2025 của đồng bào Khmer Nam Bộ

Lễ dâng y Kathina 2025 của đồng bào Khmer Nam Bộ

Hàng năm, theo truyền thống Phật giáo Nam tông Khmer, sau mỗi mùa an cư kiết hạ, các chùa Khmer tại các tỉnh, thành phố Nam Bộ lại tổ chức lễ dâng y Kathina. Đây là dịp để Phật tử dâng y cà sa lên chư Tăng đã hoàn mãn ba tháng nhập hạ. Đặc biệt, nghi lễ này chỉ diễn ra trong vòng một tháng kể từ ngày mãn hạ, mỗi chùa chỉ tổ chức thọ y một lần duy nhất theo giới luật.

Mô hình nuôi hươu ở bản Na Hai góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao Điện Biên

Mô hình nuôi hươu ở bản Na Hai góp phần làm thay đổi diện mạo vùng cao Điện Biên

Với vai trò là Bí thư Chi bộ, ông Nguyễn Đình Kiên ở xã Sam Mứn (tỉnh Điện Biên) không chỉ sâu sát địa bàn, thường xuyên tuyên truyền người dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà còn tiên phong trong việc thay đổi tư duy sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế.

Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông

Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông

Ngày 21/10, tại Sư đoàn 320, Quân đoàn 34 (xã Biển Hồ, tỉnh Gia Lai), Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo Ban Thanh niên Quân đội phối hợp với Cục Chính trị Quân đoàn 34, Cục Chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc, Phòng Chính trị Binh đoàn 15, Công an tỉnh Gia Lai và Tỉnh đoàn Gia Lai tổ chức Ngày hội “Thanh niên Quân đội với văn hóa giao thông” năm 2025.

Phú Thọ: Khẩn trương xử lý tình trạng đá rơi trên đèo Thung Khe

Phú Thọ: Khẩn trương xử lý tình trạng đá rơi trên đèo Thung Khe

Đèo Thung Khe trên tuyến Quốc lộ 6, đoạn qua địa bàn xã Mai Châu, tỉnh Phú Thọ, từ lâu được xem là cung đường hiểm trở với địa hình đặc biệt nguy hiểm: một bên là vách núi đá dựng đứng với nhiều khối đá lớn, nhỏ nằm chênh vênh, tiềm ẩn nguy cơ sạt lở bất cứ lúc nào; một bên là vực sâu, tầm nhìn hạn chế nhất là vào thời điểm sương mù dày đặc.