Hà Giang vài nét tổng quan

Hà Giang vài nét tổng quan
Bản đồ hành chính tỉnh Hà Giang
Bản đồ hành chính tỉnh Hà Giang

1. Vị trí địa lý

Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên BáiLào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang phía Bắc giáp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Hà Giang có diện tích tự nhiên là 7.884,37 km2, trong đó theo đường chim bay, chỗ rộng nhất từ tây sang đông dài 115 km và từ bắc xuống nam dài 137 km. Tại điểm cực bắc của lãnh thổ Hà Giang, cũng là điểm cực bắc của Tổ quốc, cách Lũng Cú chừng 3 km về phía đông, có vĩ độ 23013'00"; điểm cực tây cách Xín Mần khoảng 10 km về  phía tây nam, có kinh độ l04024'05"; mỏm cực đông cách Mèo Vạc 16 km về phía đông - đông nam có kinh độ l05030'04".

2. Điều kiện tự nhiên

Địa hình:

Nằm trong khu vực địa bàn vùng núi cao phía bắc lãnh thổ Việt Nam, Hà Giang là một quần thể núi non hùng vĩ, địa hình hiểm trở, có độ cao trung bình từ 800 m đến 1.200 m so với mực nước biển. Đây là vùng tập trung nhiều ngọn núi cao. Theo thống kê mới đây, trên dải đất Hà Giang rộng chưa tới 8.000 km2 mà có tới 49 ngọn núi cao từ 500 m - 2.500 m (10 ngọn cao 500 - 1.000 m, 24 ngọn cao 1000 - 1500 m, 10 ngọn cao 1.500 - 2.000 m và 5 ngọn cao từ 2.000 - 2.500 m). Tuy vậy, địa hình Hà Giang về cơ bản, có thể phân thành 3 vùng sau:

- Vùng cao phía bắc còn gọi là cao nguyên Đồng Văn, gồm các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc với 90% diện tích là núi đá vôi, đặc trưng cho địa hình karst. ở đây có những dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp, nhiều vách núi dựng đứng. Ngày 03/10/2010 cao nguyên đá Đồng văn đã gia nhập mạng lưới Công viên địa chất (CVĐC) toàn cầu với tên gọi: CVĐC Cao nguyên đá Đồng Văn.

- Vùng cao phía tây gồm các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần là một phần của cao nguyên Bắc Hà, thường được gọi là vòm nâng sông Chảy, có độ cao từ 1.000m đến trên 2.000m. Địa hình nơi đây phổ biến dạng vòm hoặc nửa vòm, quả lê, yên ngựa xen kẽ các dạng địa hình dốc, đôi khi sắc nhọn hoặc lởm chởm dốc đứng, bị phân cắt mạnh, nhiều nếp gấp.

- Vùng núi thấp bao gồm địa bàn các huyện, thị còn lại, kéo dài từ Bắc Mê, thị xã Hà Giang, qua Vị Xuyên đến Bắc Quang. Khu vực này có những dải rừng già xen kẽ những thung lũng tương đối bằng phẳng nằm dọc theo sông, suối.

Thủy văn 

Các sông lớn ở Hà Giang thuộc hệ thống sông Hồng. ở đây có mật độ sông - suối tương đối dày. Hầu hết các sông có độ nông sâu không đều độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, ít thuận lợi cho giao thông thuỷ.

Sông Lô là một sông lớn ở Hà Giang, bắt nguồn từ Lưu Lung (Vân , Trung Quốc), chảy qua biên giới Việt - Trung (khu vực Thanh Thuỷ), qua thị xã Hà Giang, Bắc Quang về Tuyên Quang. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho vùng trung tâm tỉnh.

Sông Chảy bắt nguồn từ sườn tây nam đỉnh Tây Côn Lĩnh và sườn đông bắc đỉnh Kiều Liên Ti, mật độ các dòng nhánh cao (1,1 km/km 2 ), hệ số tập trung nước đạt 2,0 km/km 2 . Mặc dù chỉ đoạn đầu nguồn thuộc địa phận tỉnh nhưng là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho khu vực phía tây của Hà Giang.

Sông Gâm bắt nguồn từ Nghiêm Sơn, Tây Trù (Trung Quốc) chảy qua Lũng Cú, Mèo Vạc về gần thị xã Tuyên Quang nhập vào sông Lô. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho phần đông của tỉnh.

Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hà Giang còn có các sông ngắn và nhỏ hơn như sông Nho Quế, sông Miện, sông Bạc, sông Chừng, nhiều khe suối lớn nhỏ cung cấp nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư.

Khí hậu

Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, khí hậu Hà Giang về cơ bản mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh miền Tây Bắc...

Nhiệt độ trung bình cả năm khoảng 21,6 độ C - 23,9 độ C, biên độ nhiệt trong năm có sự dao động trên 10 độ C và trong ngày cũng từ 6 - 7 độ C. Mùa nóng nhiệt độ cao tuyệt đối lên đến 40 độ C (tháng 6, 7); ngược lại mùa lạnh nhiệt độ thấp tuyệt đối là 2,2 độ C (tháng l).

Chế độ mưa ở Hà Giang khá phong phú. Toàn tỉnh đạt bình quân lượng mưa hàng năm khoảng 2.300 - 2.400 mm, riêng Bắc Quang hơn 4.000 mm, là một trong số trung tâm mưa lớn nhất nước ta. Dao động lượng mưa giữa các vùng, các năm và các tháng trong năm khá lớn. Năm 2001, lượng mưa đo được ở trạm Hà Giang là 2.253,6 mm, Bắc Quang là 4.244 mm, Hoàng Su Phì là 1.337,9 mm... Tháng mưa cao nhất ở Bắc Quang (tháng 6) có thể đạt trên 1.400 mm, trong khi đó lượng mưa tháng 12 ở Hoàng Su Phì là 3,5 mm, ở Bắc Mê là 1,4 mm...

Độ ẩm bình quân hàng năm ở Hà Giang đạt 85% và sự dao động cũng không lớn. Thời điểm cao nhất (tháng 6, 7, 8) vào khoảng 87 - 88%, thời điểm thấp nhất (tháng l, 2, 3) cũng vào khoảng 81%: Đặc biệt ở đây ranh giới giữa mùa khô và mùa mưa không rõ rệt. Hà Giang là tỉnh có nhiều mây (lượng mây trung bình khoảng 7,5/10, cuối mùa đông lên tới 8 - 9/10) và tương đối ít nắng (cả năm có 1.427 giờ nắng, tháng nhiều là 181 giờ, tháng ít chỉ có 74 giờ).

Các hướng gió ở Hà Giang phụ thuộc vào địa hình thung lũng. Thung lũng sông Lô quanh năm hầu như chỉ có một hướng gió đông nam với tần suất vượt quá 50%. Nhìn chung gió yếu, tốc độ trung bình khoảng 1 - l,5m/s. Đây cũng là nơi có số ngày giông cao, tới 103 ngày/năm, có hiện tượng mưa phùn, sương mù nhiều nhưng đặc biệt ít sương muối. Nét nổi bật của khí hậu Hà Giang là độ ẩm trong năm cao, mưa nhiều và kéo dài, nhiệt độ mát và lạnh, đều có ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống.

Tài nguyên đất

Trong 778.473 ha diện tích đất tự nhiên, đất nông nghiệp có 134.184 ha, chiếm 17% diện tích tự nhiên, đất lâm nghiệp có 334.100 ha, chiếm 42,4%, đất chưa sử dụng có 310.064 ha, chiếm 39,3%, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở. Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng, toàn tỉnh có 9 nhóm đất chính, trong đó chủ yếu là nhóm đất xám rất thích hợp để trồng các loại cây công nghiệp, cây dược liệu và cây ăn quả.

Tài nguyên rừng

Hà Giang có diện tích rừng tương đối lớn, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 345.860 ha, với nhiều sản vật quý hiếm: động vật có các loài gấu ngựa, sơn dương, voọc bạc má, gà lôi, đại bàng…; các loại gỗ: ngọc am, pơ mu, lát hoa, lát chun, đinh, nghiến, trò chỉ, thông đá…; các cây dược liệu như sa nhân, thảo quả, quế, huyền sâm, đỗ trọng… Rừng Hà Giang không những giữ vai trò bảo vệ môi trường sinh thái đầu nguồn cho vùng đồng bằng Bắc Bộ mà còn cung cấp những nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất công nghiệp, xây dựng, y tế và sẽ là những điểm du lịch sinh thái lý tưởng của tỉnh.

Hà Giang còn nhiều khu rừng nguyên sinh chưa được khai thác, môi trường sinh thái trong lành và chứa đựng nhiều tiềm ẩn kỳ thú. Các rừng đá trập trùng, nhấp nhô ẩn hiện trong mây bạc, nhiều đỉnh núi cao trên 2.000 m như Pu Ta Kha, Tây Côn Lĩnh; nhiều hang động đầy bí ẩn như Tùng Bá, Lùng Má, (huyện Vị Xuyên), Tùng Vài (Quản Bạ), Hang Mây, Sảng Tủng (Đồng Văn); các danh thắng như núi Cô Tiên, Cổng Trời (Quản Bạ).

Tài nguyên khoáng sản

Qua khảo sát, thăm dò, bước đầu tỉnh Hà Giang đã phát hiện được 28 loại khoáng sản khác nhau. Đáng chú ý là có những mỏ có trữ lượng lớn trên một triệu tấn với hàm lượng khoáng chất cao như: ăngtimon ở các mỏ: Mậu Duệ, Bó Mới (Yên Minh); sắt ở Tùng Bá, Bắc Mê; chì - kẽm ở Na Sơn, Tả Pan, Bằng Lang, Cao Mã Pờ. Ngoài ra, còn có nhiều khoáng sản khác như: pirít, thiếc, chì, đồng, mănggan, vàng sa khoáng, đá quý, cao lanh, nước khoáng, đất làm gạch, than non, than bùn…Hiện nay một số mỏ đang được khai thác có hiệu quả.

3. Lịch sử hình thành

Vào thời Hùng Vương, mảnh đất Hà Giang đã là một trong 15 bộ của quốc gia Lạc Việt. Thời Thục Phán An Dương Vương lập nước Âu Lạc, Hà Giang thuộc bộ lạc Tây Vu.

Trong thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc kéo dài nghìn năm, khu vực Hà Giang vẫn nằm trong địa phận huyện Tây Vu thuộc quận Giao Chỉ.

Từ năm 1075 (đời nhà Lý). Miền đất Hà Giang lúc đó thuộc về châu Bình Nguyên.

Vào đầu đời Trần, khu vực Hà Giang, Tuyên Quang lúc đó gọi là châu Tuyên Quang thuộc lộ Quốc Oai.  Năm 1397 đổi thành trấn Tuyên Quang.

Địa danh Hà Giang lần đầu tiên được nhắc đến trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức, Vị Xuyên), được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào đầu thời Vua Lê Dụ Tông, năm Ất Dậu 1707.

Năm Minh Mệnh thứ 16 (năm 1835), nhà Nguyễn bỏ châu Bảo Lạc, chia làm hai huyện: Vĩnh Điện (khoảng Bắc Mê, Yên Minh và một phần Quản Bạ ngày nay và huyện Để Định (khoảng huyện Bảo Lạc, Cao Bằng và một phần Đồng Văn, Mèo Vạc ngày nay). Lấy sông Lô phân giới để chia châu Vị Xuyên thành hai đơn vị hành chính mới: Khu vực phía hữu ngạn sông Lô được gọi là huyện Vĩnh Tuy, còn phía tả ngạn sông Lô là huyện Vị Xuyên.

Năm Thiệu Trị thứ hai (năm 1842), triều đình nhà Nguyễn chia Tuyên Quang làm ba hạt: Hà Giang, Bắc Quang, Tuyên Quang. Hạt Hà Giang có một phủ là Tương Yên với bốn huyện : Vị Xuyên, Vĩnh Tuy, Vĩnh Điện, Để Định.

Năm Thiệu Trị thứ tư (năm 1844), nhà Vua lại phê chuẩn cho các huyện châu thuộc tỉnh hạt biên giới phía Bắc, Tây Bắc, trong đó có Hà Giang, “vẫn theo như cũ đặt chức thổ quan”. Đến đời Tự Đức thì chế độ “thổ quan” bị bãi bỏ trên phạm vi cả nước.

Năm 1858, sau khi đánh chiếm hầu hết các tỉnh Nam Kỳ, Bắc Kỳ, năm 1887, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Giang và thay đổi chế độ cai trị bằng cách thiết lập các đạo quan binh.

Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà Giang được thành lập, bao gồm phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy (tỉnh Tuyên Quang).

Năm 1893, trong dịp cải tổ trong các quân khu, Hà Giang trở thành trung tâm của một quân khu và cùng với Tuyên Quang hợp thành Đạo quan binh thứ ba (quân khu 3).

Ngày 17/9/1895, Toàn quyền Đông Dương ra Quyết định số 1432 chia khu quân sự thứ ba thành ba tỉnh: Tuyên Quang, Bắc Quang và Hà Giang. Trong đó, Hà Giang bao gồm huyện Vị Xuyên (trừ tổng Phú Loan và Bằng Hành), cộng thêm các tổng Phương Độ và Tương Yên.

Ngày 28/4/1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra quyết định sáp nhập tỉnh Bắc Quang và tỉnh Hà Giang thành Đạo quan binh Hà Giang. Đến thời điểm này, Đạo quan binh thứ ba Hà Giang đã được xác định ranh giới rõ ràng và tương đối ổn định.

Trước cách mạng tháng tám năm 1945, Hà Giang có 4 châu và 1 thị xã (Bắc Quang, Vị Xuyên, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, thị xã Hà Giang).

Ngày 23/3/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán Khu Lao - Hà - Yên, sáp nhập tỉnh Hà Giang vào Khu tự trị Việt Bắc.

Đầu tháng 4/1976, tỉnh Hà Tuyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang.

Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9, khoá VIII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hà Giang được tái lập gồm 10 đơn vị hành chính là thị xã Hà Giang và 9 huyện, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hà Giang.

Ngày 01/12/2003, Chính phủ ra nghị định số 146/NĐ-CP về việc thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang.

Ngày 27/9/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về việc thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang.

4. Dân tộc

Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn tỉnh Hà Giang: 

- Dân tộc Hoa (Hán)
- Dân tộc La Chí
Dân tộc Lô Lô
Dân tộc Mông
Dân tộc Cờ Lao
Dân tộc Pà Thẻn
Dân tộc Dao
- Dân tộc Phù Lá
 
Theo hagiang.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Khẩn trương khắc phục ngập úng ở Buôn Nu sau bão 13 và mưa lũ

Khẩn trương khắc phục ngập úng ở Buôn Nu sau bão 13 và mưa lũ

Ảnh hưởng của bão số 13 cùng với đợt mưa lũ lịch sử (từ ngày 16-20/11) đã khiến Buôn Nu, xã Uar (tỉnh Gia Lai) ngập sâu trong nước nhiều ngày, buộc hàng trăm hộ dân phải sơ tán khẩn cấp. Cho đến thời điểm hiện tại, Buôn Nu vẫn còn 30 hộ dân với gần 100 nhân khẩu sinh sống trong điều kiện nước ngập từ 0,2-0,5m, đời sống bị đảo lộn nghiêm trọng.

Dứa chết hàng loạt, người nông dân thiệt hại nặng nề

Dứa chết hàng loạt, người nông dân thiệt hại nặng nề

Hàng trăm ha cây dứa của người dân trên địa bàn xã Hà Long và phường Quang Trung, tỉnh Thanh Hóa, đang trong giai đoạn phát triển xanh tốt, bỗng nhiên héo úa và chết hàng loạt trong khoảng một tháng trở lại đây, gây thiệt hại nặng nề cho người nông dân. Hiện chính quyền địa phương đang thống kê mức thiệt hại, tìm giải pháp hỗ trợ giúp nông dân giảm thiệt hại do cây dứa bị chết.

Điện Biên: Tăng cường trên 100 y, bác sĩ để củng cố y tế cơ sở

Điện Biên: Tăng cường trên 100 y, bác sĩ để củng cố y tế cơ sở

Ngày 5/12, Giám đốc Sở Y tế tỉnh Điện Biên Phạm Giang Nam cho biết, đơn vị đang tập trung triển khai đợt tăng cường trên 100 y, bác sĩ từ các bệnh viện tuyến tỉnh và trung tâm y tế xuống hỗ trợ các trạm y tế xã. Đây là bước đi quan trọng nhằm nâng cao năng lực chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt tại các xã vùng sâu, vùng xa nơi tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao và nhu cầu khám, chữa bệnh tại chỗ ngày càng lớn.

Khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người dân vùng sạt lở

Khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người dân vùng sạt lở

Trong hai ngày 4 - 5/12, đoàn y bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Trung ương Quảng Nam đã tổ chức chương trình quân - dân y kết hợp, thăm khám và phát thuốc miễn phí cho người dân xã Trà My, thành phố Đà Nẵng. Đây chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống tại khu vực bị ảnh hưởng bởi lũ quét, sạt lở núi trong đợt mưa lũ vừa qua.

75 ngầm tràn miền núi Thanh Hóa hư hỏng, xuống cấp

75 ngầm tràn miền núi Thanh Hóa hư hỏng, xuống cấp

Theo thống kê của Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa, trên địa bàn có tổng số 561 công trình ngầm tràn; trong đó có 90 tràn trên các tuyến đường tỉnh, 471 tràn trên các tuyến đường giao thông nông thôn. Mặc dù Thanh Hóa đã dành các nguồn lực để nâng cấp, sửa chữa ngầm tràn xuống cấp, tuy nhiên, tỉnh vẫn còn khoảng 75 ngầm tràn tại các xã miền núi đang bị hư hỏng, xuống cấp mà chưa được sửa chữa.

Tập trung tăng trưởng kinh tế và đảm bảo đời sống nhân dân

Tập trung tăng trưởng kinh tế và đảm bảo đời sống nhân dân

Sáng 5/12, đoàn công tác của Quốc hội do Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Đỗ Văn Chiến làm Trưởng đoàn đã làm việc tại tỉnh Tuyên Quang về các dự án, chương trình chào mừng 80 năm Quốc hội Việt Nam (1946 - 2026) và về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh.

Hỗ trợ sinh kế giúp đồng bào thoát nghèo

Hỗ trợ sinh kế giúp đồng bào thoát nghèo

Thời gian qua, công tác giảm nghèo tại tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ghi nhận nhiều chuyển biến nhờ mô hình hỗ trợ sinh kế theo nhu cầu và điều kiện thực tế của người dân. Từ việc hỗ trợ con giống, cây trồng, đến tập huấn kỹ thuật và giám sát quá trình sản xuất, các mô hình giảm nghèo đã tạo sinh kế bền vững, giúp nhiều hộ vươn lên ổn định kinh tế.

Phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng và dệt thổ cẩm của người Ba Na

Phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng và dệt thổ cẩm của người Ba Na

Tại thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk), loại hình nghệ thuật đặc sắc “Trống đôi, cồng ba, chiêng năm” của người Ba Na - Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia được ghi danh từ năm 2016 cùng với nghề dệt thổ cẩm truyền thống đã tạo nên bản sắc độc đáo của cộng đồng nơi đây. Việc triển khai Dự án Dịch vụ du lịch cộng đồng thôn Xí Thoại không chỉ góp phần phát huy các nét văn hóa đặc trưng mà còn mở ra sinh kế bền vững, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.

OCOP Tuyên Quang: Từ sản vật bản địa đến thương hiệu vùng miền

OCOP Tuyên Quang: Từ sản vật bản địa đến thương hiệu vùng miền

Miền đất Tuyên Quang sau hợp nhất hiện lên như một dải lụa xanh thẳm, nơi non cao trùng điệp ôm lấy những thung lũng êm đềm, nơi triền đá tai mèo, nếp nhà trình tường, những tầng ruộng bậc thang mùa nối mùa tạo nên vẻ đẹp vừa hoang sơ, vừa phồn thực. Khí hậu phân tầng theo độ cao, nguồn nước tinh khiết chảy ra từ dãy Tây Côn Lĩnh đã nuôi dưỡng những loại cây trồng, loài hoa chỉ sinh trưởng được trên miền đá này.

Già làng, trưởng thôn là điểm tựa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên

Già làng, trưởng thôn là điểm tựa của đồng bào dân tộc thiểu số vùng biên

Ngày 2/12, tại xã Phú Nghĩa (Đồng Nai), Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 778 (Quân Khu 7) tổ chức buổi gặp mặt già làng, trưởng thôn, người có uy tín tiêu biểu trên địa bàn đứng chân nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống của lực lượng vũ trang Quân khu 7 (10/12/1945 - 10/12/2025) và 81 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2025).

Di tích Gò Thành - Bảo vật sống của nền văn hóa Óc Eo

Di tích Gò Thành - Bảo vật sống của nền văn hóa Óc Eo

Tọa lạc tại ấp Tân Thành, xã Chợ Gạo, tỉnh Đồng Tháp (trước đây là xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), di chỉ khảo cổ Gò Thành đã được khai quật là di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo, nền văn minh cổ từng phát triển rực rỡ tại khu vực Nam Bộ từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII.

Người dân vùng chăn nuôi gia súc gượng dậy nơi cơn lũ đi qua

Người dân vùng chăn nuôi gia súc gượng dậy nơi cơn lũ đi qua

Những đợt lũ liên tiếp đã khiến các vùng chăn nuôi dê, cừu ở Khánh Hòa và vùng nuôi bò thịt ven sông Ngân Sơn (Đắk Lắk) thiệt hại nặng. Nước đã rút nhưng chuồng trại hư hỏng, đàn gia súc mất trắng khiến nhiều hộ rơi vào cảnh trắng tay, đang gượng dậy khôi phục sản xuất trong khó khăn.

Đưa hàng Việt tới người tiêu dùng vùng biên giới An Giang

Đưa hàng Việt tới người tiêu dùng vùng biên giới An Giang

Ở vùng biên giới Tây Nam, nơi hàng ngoại chỉ cần "qua một con nước" đã có thể tràn vào các chợ nội địa, nên việc giữ vững chỗ đứng cho hàng Việt chưa bao giờ là dễ. Giữa dòng chảy ấy, ông Tạ Minh Sơn, Giám đốc Siêu thị Tứ Sơn (phường Châu Đốc, An Giang) vẫn kiên định với hơn 20 năm dành trọn tâm huyết đưa hàng Việt, đặc sản vùng miền và sản phẩm OCOP đến gần người tiêu dùng vùng biên, vùng sâu, vùng xa.

Cao Bằng quy hoạch lại vùng sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu

Cao Bằng quy hoạch lại vùng sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu

Trước tình hình biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Cao Bằng đã xác định chiến lược nâng cao khả năng chống chịu của ngành nông nghiệp dựa trên Kế hoạch hành động ứng phó biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.

Âm vang trống đồng trong đời sống người Lô Lô

Lào Cai: Khởi công xây dựng 6 điểm trường tại các xã biên giới

Ngày 29/11, tại điểm trường Mầm non Xà Khái Tủng, Trường Mầm non Tả Ngải Chồ, xã Pha Long, Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai phối hợp với UBND các xã Pha Long, Trịnh Tường, Y Tý tổ chức Lễ khởi công xây dựng 6 điểm trường trên địa bàn 3 xã biên giới Pha Long, Trịnh Tường và Y Tý.

Thanh Hóa xử lý sạt lở chuẩn bị cho mùa du lịch cao điểm cuối năm

Thanh Hóa xử lý sạt lở chuẩn bị cho mùa du lịch cao điểm cuối năm

Ngày 28/11, ông Hà Văn Tung, Trưởng phòng Kinh tế UBND xã Pù Luông (tỉnh Thanh Hóa) cho biết, nhằm đảm bảo an toàn giao thông và phục vụ hoạt động du lịch mùa cao điểm cuối năm một cách tốt nhất, UBND xã Pù Luông đã huy động các lực lượng tại chỗ phối hợp với Hạt Giao thông đường bộ khắc phục các điểm sạt lở do ảnh hưởng của mưa bão số 10.

Những gia đình 'không về nhà' sau mưa lũ lịch sử

Những gia đình 'không về nhà' sau mưa lũ lịch sử

Khu vực phía Đông tỉnh Đắk Lắk vừa trải qua trận mưa lũ lịch sử với những thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Nước lũ rút đi, bà con ai nấy đều “nôn nóng” trở về nhà để kiểm tra tài sản, dọn dẹp nhà cửa, ổn định cuộc sống. Thế nhưng, có nhiều gia đình không thể trở về ngôi nhà của mình khi mưa lũ đã “xóa sổ” mái ấm mà hàng chục năm tích góp có được. Hơn lúc nào hết, những gia đình mất nơi an cư cần sự trợ giúp của Nhà nước, mạnh thường quân… để nhanh chóng “gượng dậy” sau mưa lũ kinh hoàng.