Đưa ngành sắn phát triển bền vững

Ngày 27/6, tại tỉnh Tây Ninh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị “Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Ông Hoàng Trung, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ông Trần Văn Chiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh đồng chủ trì hội nghị.

vna_potal_ban_giai_phap_phat_trien_ben_vung_nganh_hang_san_viet_nam_7452674.jpg
Đoàn chủ trì Hội nghị. Ảnh: Giang Phương - TTXVN

Hơn 150 đại biểu là lãnh đạo cục, vụ, viện và trung tâm thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; lãnh đạo UBND tỉnh Tây Ninh; lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 24 tỉnh, thành có diện tích trồng sắn lớn của cả nước.

Tập trung nghiên cứu, lưu hành giống kháng bệnh

Tây Ninh là tỉnh có diện tích trồng sắn (khoai mì) lớn thứ hai cả nước sau tỉnh Gia Lai. Theo ông Trần Văn Chiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, diện tích sản xuất sắn toàn tỉnh hiện nay trên 61.000 ha, chiếm 23% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Sản lượng sắn hàng năm trên 2 triệu tấn. Năng suất bình quân đạt 33,2 tấn/ha, cao nhất cả nước. Tính đến tháng 6 năm 2024, diện tích sắn trên địa bàn tỉnh đã xuống giống được 45.975 ha, bằng 74,6% so với kế hoạch.

Ông Trần Văn Chiến nhấn mạnh, để năng suất bình quân sắn đạt trên 33 tấn/ha và diện tích sắn nhiễm bệnh khảm lá giảm mạnh, tỉnh đã tập trung chỉ đạo ngành nông nghiệp phối hợp với Viện Di truyền nông nghiệp, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc khảo nghiệm các giống sắn có khả năng kháng bệnh khảm lá. Tính đến nay, diện tích trồng giống kháng khảm lá trên 4.500 ha; trong đó giống HN1 trên 4.400 ha. Bên cạnh đó, hiện nay, người sản xuất sắn trên địa bản tỉnh đã chủ động tìm mua các loại giống sắn không bị nhiễm bệnh ở các tỉnh vùng, địa phương lân cận để sản xuất, đồng thời cũng đã tăng cường nhân nhanh các giống sắn kháng/chống chịu với bệnh khảm lá.

vna_potal_ban_giai_phap_phat_trien_ben_vung_nganh_hang_san_viet_nam_7452673.jpg
Ông Trần Văn Chiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Giang Phương - TTXVN

Theo ông Trần Văn Chiến, hiện nay diện tích sắn nhiễm bệnh khảm lá đã giảm mạnh (giảm 7.453 ha so với năm 2019) và giảm mức độ gây hại dần về các năm sau, chủ yếu ở mức nhiễm nhẹ và chưa phát sinh diện tích nhiễm nặng. Tuy nhiên, để hoạt động sản xuất ngành sắn của nước ta ngày càng phát triển bền vững cần có những giải pháp tốt về sản xuất, khoa học công nghệ, chế biến, quản lý và hợp tác quốc tế.

Ông Nguyễn Quý Dương, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho biết, tổng diện tích sắn cả nước đạt trên 511.000 ha (năm 2023), giảm khoảng 60.000 ha so với năm 2015. Cả nước hiện có trên 40 tỉnh trồng sắn, tập trung ở 5 vùng trọng điểm chính gồm Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, chiếm 98% về diện tích và sản lượng sắn cả nước. Các giống được trồng hiện nay là KM94, KM 140, KM 419, KM 505, HLS-11, các giống địa phương và các giống sắn kháng bệnh khảm lá được công bố lưu hành là: HN1, HN3, HN5. Tổng sản lượng sắn cả nước đạt 10,4 triệu tấn. Trong đó, năng suất bình quân đạt 20,4 tấn/ha. Các tỉnh có năng suất cao là Tây Ninh (33,3 tấn/ha), Đồng Nai, BRVT (25-27 tấn/ha)…

Cũng theo ông Nguyễn Quý Dương, bệnh khảm lá sắn được phát hiện từ năm 2017 tại Tây Ninh. Tính đến năm 2023, bệnh khảm lá sắn đã gây hại tại 22 tỉnh với tổng diện tích nhiễm bệnh là 83.734 ha, nhiễm nặng 20.956 ha. Từ năm 2019, tỉnh Tây Ninh đã phối hợp với Viện Di truyền nông nghiệp, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc nghiên cứu khảo sát giống sắn kháng bệnh khảm lá. Sau khi được Viện Di truyền Nông nghiệp chuyển giao các giống sắn kháng bệnh khảm, nông dân trồng sắn trên địa bàn tỉnh đã tiếp nhận và phát triển diện tích trồng các giống kháng khảm. Theo đó, năm 2024, Tây Ninh có tổng diện tích trồng các giống kháng bệnh khảm lá lên 3.277 ha.

Ngoài ra, Tây Ninh đã thực hiện nhân nhanh giống HN1 kháng bệnh khảm lá bằng nhà màng Tunnel (4 nhà, mỗi nhà 50 m2), cung cấp khoảng 150.000 - 180.000 cây giống để sản xuất. Đồng thời, xây dựng mô hình nhân giống sắn mới gắn với nhà máy tiêu thụ tại Tây Ninh với quy mô 75 ha, sử dụng giống HN5 và HN1, thực hiện (năm 2023 - 2024) tại huyện Tân Châu và Châu Thành.

vna_potal_ban_giai_phap_phat_trien_ben_vung_nganh_hang_san_viet_nam_7452675.jpg
Đại diện lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Giang Phương - TTXVN

Đề án phát triển bền vững ngành hàng sắn

Ông Hoàng Trung, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, để định vị rõ ràng vị trí của cây sắn, lần đầu tiên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Đề án phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đề án đã xác định các định hướng phát triển ngành hàng sắn đến năm 2030 và đưa ra các giải pháp toàn diện để triển khai các mục tiêu đề án. Diện tích trồng sắn được duy trì từ 480.000 – 510.000 ha, trong đó diện tích sử dụng giống đảm bảo chất lượng chiếm 40-50%, sản lượng củ tươi đạt 11,5-12,5 triệu tấn; tổng công suất các nhà máy chế biến đạt 12-14,2 triệu tấn củ tươi/năm; kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 -2 tỷ USD/năm.

“Quan điểm là không gia tăng diện tích mà tập trung vào cải thiện năng suất; đa dạng hóa sản phẩm chế biến từ cây sắn; mở rộng thị trường xuất khẩu; tổ chức sản xuất bền vững”, Thứ trưởng Hoàng Trung cho biết.

Để phát triển bền vững ngành hàng sắn Việt Nam trong thời gian tới, Thứ trưởng Hoàng Trung đề nghị Cục Trồng trọt chủ trì rà soát, trình ban hành và hướng dẫn các địa phương ban hành các chính sách khuyến khích phát triển, đầu tư vào ngành hàng sắn. Hướng dẫn tổ chức sản xuất sắn hiệu quả, rà soát và ban hành các quy trình canh tác sắn theo đặc thù các vùng sinh thái, các quy trình sản xuất giống sắn sạch bệnh, kháng bệnh khám lá sắn. Cục phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế tổ chức buổi làm việc với Phái đoàn EU và tham tán một số nước EU để tìm kiếm cơ hội kết nối giao thương cho ngành hàng sắn.

vna_potal_ban_giai_phap_phat_trien_ben_vung_nganh_hang_san_viet_nam_7452672.jpg
Ông Hoàng Trung, Thứ trưởng Bộ NN & PTNT phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Giang Phương - TTXVN

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng đề nghị Cục Bảo vệ thực vật thực hiện tốt việc dự tính dự báo và phòng trừ sinh vật gây hại trên cây sắn đặc biệt là bệnh khảm lá sắn. Cục rà soát và đề xuất sửa đổi bổ sung quy trình phòng trừ bệnh khảm lá sắn cho phù hợp với tình hình thực tế sản xuất. Đồng thời, phối hợp với Cục Trồng trọt, các đơn vị liên quan hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương xây dựng phương án nhân giống sạch bệnh, giống kháng bệnh.

Ngoài ra, các địa phương cần chủ động tham mưu, bố trí nguồn lực để xây dựng các chương trình, dự án phát triển ngành hàng sắn phù hợp với đặc điểm và thế mạnh của địa phương. Lồng ghép các chỉ tiêu về cây sắn vào các bộ chỉ tiêu, mục tiêu phát triển kinh tế tại địa phương để có những chính sách đầu tư, khuyến khích thích đáng để phát triển ngành hàng sắn đặc biệt là các đầu tư về hạ tầng cho vùng nguyên liệu trồng sắn. Đặc biệt, hỗ trợ triển khai liên kết sản xuất giữa người dân và nhà máy sản suất sắn trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của các bên hướng tới sản xuất chuyên nghiệp, bền vững…

Thứ trưởng Hoàng Trung cũng nhấn mạnh, để thực hiện được các giải pháp trên, không chỉ là các cơ quan của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mà các địa phương cần sử dụng linh hoạt các nguồn lực từ ngân sách nhà nước (bao gồm các đề tài khoa học, chương trình, đề án), từ các hoạt động hợp tác quốc tế cũng như các nguồn lực hợp pháp khác. Mặc khác, các cấp, các ngành, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, hiệp hội cùng nhau phối hợp triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển ngành hàng sắn. Từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, khẳng định và tăng cường uy tín, vị thế của sắn và các sản phẩm sắn của Việt Nam.

Giang Phương

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.