Sau nhiều năm bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh “chết nhanh, chết chậm”, ngành hồ tiêu ở Gia Lai đang dần phục hồi nhờ sự chuyển đổi mạnh mẽ sang phương thức canh tác thuận tự nhiên, trong đó người trồng ưu tiên duy trì độ phì nhiêu của đất, sử dụng chế phẩm sinh học và giảm thiểu hóa chất. Cách làm này giúp cây tiêu tăng sức đề kháng, ổn định năng suất và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai, tỉnh hiện có hơn 7.500 ha hồ tiêu, trong đó 6.157 ha đang cho thu hoạch với năng suất trung bình 3,5 tấn/ha, tổng sản lượng đạt khoảng 21.670 tấn/năm. Trong số này, trên 2.680 ha áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm, 383 ha được chứng nhận VietGAP, Organic hoặc Rainforest. Những con số này cho thấy sự hồi phục tích cực sau giai đoạn dịch bệnh bùng phát tại các vùng trọng điểm như huyện Chư Sê, Chư Pưh (cũ).
Dù nhiều vườn tiêu từng chịu thiệt hại nặng, một số hộ vẫn trụ vững nhờ kiên trì áp dụng biện pháp canh tác bền vững. Gia đình ông Nguyễn Tấn Lục, thôn 4, xã Ia Ko là điển hình. Gắn bó với hồ tiêu hơn 20 năm, ông Lục tập trung cải tạo đất bằng phân hữu cơ, tưới Trichoderma và men vi sinh tự ủ định kỳ, duy trì hệ vi sinh vật có lợi giúp cây tiêu khỏe gốc, hạn chế bệnh chết nhanh, chết chậm.
Người trồng tiêu còn phải đối mặt sâu bệnh chích hút làm lá vàng, xoăn và rụng. Tại xã Ia Pia, bà Võ Thị Tuyết đã dùng dung dịch thảo mộc tự chế từ tỏi, gừng, ớt, sả ngâm rượu để xử lý sâu bệnh, giảm đáng kể chi phí hóa chất, đồng thời giúp đất tơi xốp và vườn tiêu hồi phục nhanh sau mưa nắng thất thường.
Tại xã Bờ Ngoong, nhiều hộ chuyển sang trồng xen tiêu với cà phê theo hướng hữu cơ, giữ thảm cỏ tự nhiên và bổ sung phân chuồng hoai mục định kỳ. Chị Rơ Mah H’Hoang, làng Grai Mek, chia sẻ vườn tiêu đạt năng suất 4 - 5 kg/trụ, sâu bệnh ít xuất hiện so với phương thức thâm canh trước đây.
Theo ông Hoàng Phước Bính, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Hồ tiêu Chư Sê, nền đất khỏe là yếu tố then chốt để hồ tiêu phát triển bền vững. Đất bazan ở Tây Nguyên thường có độ pH 4–5, thuận lợi cho nấm bệnh. Khi độ pH được nâng lên 5,5–6 thông qua phân hữu cơ và cải tạo định kỳ, cây tiêu sinh trưởng tốt hơn, giảm rủi ro dịch bệnh và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Vườn hồ tiêu tại Gia Lai sinh trưởng, phát triển bền vững nhờ áp dụng canh tác thuận tự nhiên.
Thạc sĩ Nguyễn Quang Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây hồ tiêu (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên), cho rằng canh tác thuận tự nhiên là hướng đi tất yếu giúp cây tiêu thích ứng biến đổi khí hậu. Ông Ngọc nhấn mạnh, hiện 95% hồ tiêu Tây Nguyên là giống Vĩnh Linh, dễ tổn thương khi dịch bệnh bùng phát. Trung tâm đang tuyển chọn giống mới có khả năng chống chịu tốt hơn, giảm rủi ro phụ thuộc vào một kiểu hình. Mỗi nông dân cần trở thành “chuyên gia” trên vườn của mình, phát hiện sâu bệnh sớm và dùng thuốc bảo vệ thực vật đúng kỹ thuật, bảo đảm an toàn môi trường và chất lượng nông sản.
Kinh nghiệm từ thời kỳ phát triển nóng cũng để lại nhiều bài học quý cho người trồng tiêu tại Gia Lai. Diện tích hồ tiêu từng vượt 18.000 ha, giá tiêu lên 200.000 - 250.000 đồng/kg, giúp nhiều hộ thoát nghèo. Tuy nhiên, mở rộng quá nhanh, sử dụng hóa chất và tưới nước quá mức khiến đất suy thoái, cây tiêu yếu, dịch bệnh lan rộng, nhiều hộ buộc thu hẹp quy mô hoặc chuyển đổi cây trồng khi giá xuống thấp.
Hiện nay, người trồng tập trung vào chất lượng, an toàn và khả năng truy xuất nguồn gốc, giữ thảm cỏ tự nhiên, thiết kế thoát nước tốt, tăng phân chuồng hoai mục và hạn chế phân vô cơ. Các mô hình này giúp giảm chi phí, ổn định năng suất và nâng cao giá trị sản phẩm trên thị trường xuất khẩu.
Với sự hỗ trợ từ ngành chuyên môn và nỗ lực của người dân, hồ tiêu Gia Lai đang phục hồi vững chắc, dần lấy lại vị thế trong cơ cấu cây trồng chủ lực. Hướng canh tác thuận tự nhiên, chú trọng nền đất khỏe và ứng dụng khoa học kỹ thuật phù hợp được xem là nền tảng để ngành hồ tiêu phát triển ổn định và bền vững trong thời gian tới./.