Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.
Gìn giữ giá trị văn hóa
Trong cuộc sống hiện đại, nhiều điệu múa của đồng bào các dân tộc đang dần mai một. Để giữ gìn những giá trị ấy, ngành Văn hóa tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức nhiều chương trình, hội thi, hội diễn dân gian nhằm khuyến khích các bạn trẻ tập luyện và biểu diễn các bài múa truyền thống.
Chiều cuối tuần, tại buôn du lịch cộng đồng Tơng Jú (phường Ea Kao), tiếng chiêng vang vọng giữa khoảng sân đất đỏ sau nhà cộng đồng. Những cô gái Ê Đê trong trang phục thổ cẩm nối vòng xoang uyển chuyển, đôi tay mềm mại, chân trần nhịp theo tiếng chiêng trầm hùng. Cạnh đó, các chàng trai vừa diễn tấu cồng chiêng, vừa giữ nhịp, tái hiện sinh động không gian văn hóa buôn làng.
Chị H’Huyền Mlô, buôn M’Oa, xã Ea Kar cho biết, làn điệu dân ca và múa dân gian là hai giá trị quý nhất của dân tộc Ê Đê. Là thế hệ trẻ, chị H’Huyền rất yêu quý bản sắc của đồng bào dân tộc mình và tự nhủ bản thân cần có trách nhiệm lưu giữ, truyền lại để thế hệ trẻ hiểu, yêu và tự hào về bản sắc dân tộc mình.
Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Lân, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tại Đắk Lắk, hướng dẫn học viên các động tác múa.
Nhằm khơi dậy tình yêu văn hóa dân tộc, mới đây, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk đã mở lớp tập huấn múa dân gian Tây Nguyên, thu hút các học viên là thanh niên, nghệ nhân trẻ và cán bộ văn hóa cơ sở. Các bạn trẻ của buôn làng đã nắm được những đặc trưng cơ bản của múa dân gian Ê Đê, từ động tác, tiết tấu đến ý nghĩa nghi lễ. Các học viên được thực hành, dàn dựng và biểu diễn thành công các tiết mục múa kết hợp cồng chiêng, kỹ năng biểu diễn các điệu múa dân gian Tây Nguyên.
Nhà văn Niê Thanh Mai, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đắk Lắk chia sẻ, trong bối cảnh nhiều giá trị văn hóa đang đứng trước nguy cơ mai một hoặc bị cải biên, việc trang bị kiến thức nền tảng vững chắc và định hướng nghệ thuật đúng đắn cho đội ngũ làm công tác văn hóa là cần thiết, giúp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên; bồi dưỡng đội ngũ nghệ nhân trẻ, hạt nhân văn nghệ cơ sở, tiếp tục lan tỏa tinh hoa nghệ thuật dân gian đến cộng đồng.
"Chúng tôi mong muốn đồng hành cùng thanh thiếu niên người dân tộc thiểu số để các bạn có kiến thức bài bản, múa đúng và có hồn. Đây là bước khởi đầu trong chuỗi hoạt động hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng, để các bạn trẻ có chiều sâu, giới thiệu đến đông đảo công chúng về lĩnh vực múa và các nghi thức văn nghệ dân gian thật sự cảm xúc", bà Niê Thanh Mai chia sẻ.
“Đặc sản” trong các lễ hội
Trong bối cảnh hội nhập, nhiều giá trị văn hóa truyền thống có nguy cơ bị mai một hoặc biến tấu. Do đó, việc chuẩn hóa, khôi phục và đưa múa dân gian vào hoạt động du lịch cộng đồng được xem là hướng đi thiết thực. Tại nhiều buôn làng ở Đắk Lắk, múa dân gian cùng tiếng cồng chiêng đã trở thành “đặc sản” trong các lễ hội, chương trình giao lưu văn hóa, góp phần lan tỏa bản sắc vùng đất Tây Nguyên đến du khách trong và ngoài nước.
Các bạn trẻ thực hiện nghi thức “Mời rượu” một hoạt động mang tính trang trọng trong nghi lễ đón khách của dân tộc Ê Đê.
Tiến sĩ Lương Thanh Sơn, nguyên Giám đốc Bảo tàng Đắk Lắk nhận định, các điệu múa dân gian Tây Nguyên có ý nghĩa mô phỏng hoạt động sản xuất, săn bắt, sinh hoạt hằng ngày hoặc thể hiện tình yêu quê hương, đất nước. Mỗi động tác, mỗi nhịp xoang đều phản ánh mối giao hòa giữa con người với thiên nhiên và triết lý nhân sinh sâu sắc.
Theo Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Lân, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tại Đắk Lắk, trong sinh hoạt cộng đồng của các dân tộc Tây nguyên như: Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Xê Đăng..., múa dân gian là yếu tố không thể thiếu. Múa dân gian Tây Nguyên không chỉ là những động tác cơ thể, mà là ngôn ngữ của linh hồn, là cách người Tây Nguyên giao tiếp với thần linh, núi rừng. Mỗi nhịp điệu, vòng xoang đều chứa đựng câu chuyện về cuộc sống, mùa màng, lễ hội. Việc đưa múa dân gian vào hoạt động của du lịch văn hóa cộng đồng là xu hướng mà nhiều buôn làng ở Đắk Lắk đang thực hiện.
Thanh niên tại buôn du lịch cộng đồng Tơng Jú (phường Ea Kao, tỉnh Đắk Lắk) đánh cồng chiêng.
Nhằm gìn giữ di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Lắk đã triển khai nhiều chương trình, đề án cụ thể. Trên cơ sở Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, ngành Văn hóa phối hợp các địa phương khảo sát, lựa chọn những buôn làng tiêu biểu để đầu tư phát triển du lịch cộng đồng. Các hoạt động biểu diễn nghệ thuật dân gian, trong đó có múa truyền thống, được tổ chức thường xuyên tại điểm du lịch trọng điểm.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trẻ làm văn hóa và du lịch được tỉnh chú trọng. Các lễ hội đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, chuẩn hóa, tổ chức định kỳ nhằm tạo thương hiệu riêng cho du lịch Đắk Lắk.
Giữa nhịp sống hiện đại, tiếng chiêng và vòng xoang vẫn vang vọng. Đó không chỉ là nghệ thuật trình diễn mà còn là ký ức cộng đồng, ngôn ngữ kết nối quá khứ với hiện tại để nhịp chiêng, điệu múa mãi ngân vang qua các thế hệ./.
Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số: 331.194 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.
Ăn: Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.
Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.
Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.
Quan hệ xã hội: Gia đình Ê Đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.
Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.
Lễ Tết: Người Ê Đê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.
Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê Đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê Đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em Ê Đê ưa thích.
Theo cema.gov.vn