Kỹ thuật nhân giống cây điều

Kỹ thuật nhân giống cây điều
Chăm sóc điều trên diện tích trồng theo mô hình mới tại xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Ảnh: Dương Ngọc - TTXVN.
Chăm sóc điều trên diện tích trồng theo mô hình mới tại xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Ảnh: Dương Ngọc - TTXVN.

1. Yêu cầu sinh thái

- Cây Điều thích hợp cho nhiều loại đất khác nhau (đất đồi trọc, đất triền đồi hoang hóa, đất kém phì nhiêu đất xám, đất đỏ vàng, đất phù sa…). Đặc biệt, cây Điều sinh trưởng và phát triển tốt trên tầng đất xám, đất đỏ vàng, đất phù sa nhưng phát triển kém trên tầng đất bị úng thủy.

– Điều sinh trưởng tốt với khí hậu nhiệt đới, chịu được biên độ dao động từ 7 – 46 độ C (thích hợp nhất là 24 – 28 độ C). Trong năm tháng nào nhiệt độ dưới 150C Điều sinh trưởng và phát triển giảm rõ rệt. Điều thích nghi với độ cao từ 500m hoặc 600m trở xuống so với mặt nước biển. Độ cao từ 700m trở lên cây Điều ghép sẽ sinh trưởng và phát triển kém. Lượng mưa thích hợp nhất trung bình từ 1.000 – 2.000mm/năm, nhưng vẫn sinh trưởng được ở lượng mưa từ 400 – 1.000mm/năm, độ ẩm < 75 % là thích hợp nhất. Sinh trưởng và phát triển của cây Điều liên quan chặt chẽ đến chế độ ánh sáng. Độ ngày dài và độ may che phủ. Ở những vùng có độ dài ngày và đêm bằng nhau rất thích hợp cho việc trồng Điều. Vùng có nhiều sương mù cây vẫn sinh trưởng bình thường nhưng cho trái kém, thích hợp với những vùng có thời gian chiếu sáng khoảng 2.000 giờ/năm.

2. Kỹ thuật gieo tạo nhân giống

2.1. Chuẩn bị vật tư

– Túi bầu: Pôlyêtilen 14 x 35cm không xếp gốc hoặc 10 x 35cm có xếp gốc.

– Đất: Đất thịt nhe hoặc đất thịt pha cát.

– Phân: Phân chuồng ủ hoai ( hoặc phân vi sinh ), Lân, Urê, NPK.

– Thuốc sâu: Thuốc trừ sâu các loại như Dithane M45, ViFudan 3G, Bi58, Thasudan, Bavistin 50FL, Bordeaux, Vôi, Chất bám dính…

– Hạt giống: Chọn hạt ở cây mẹ từ 5-7 tuổi, có từ 160-170 hạt/kg (có tán cây to khỏe, không bị khuyết tật, sâu bệnh, cây cho năng xuất cao).

– Các dụng cụ như: Dao ghép, kéo cắt cành, dây ghép nilon Trung Quốc, thuốc tím, rơm, lưới che, bạc lót và một số dụng cụ phục vụ cho vườn ươm…

2.2. Chuẩn bị vườn ươm gốc ghép (líp ươm và hỗn hợp ruột bầu)

Vườn ươm gốc ghép phải đặt nơi khô ráo, thoát nước tốt. Đặc biệt cây Điều con rất cần ánh sáng do đó vườn ươm phải quang đãng, không có cây cao che bóng.

a) Chuẩn bị líp ươm:

– Líp ươm phải được chuẩn bị trước khi gieo tạo cây con, có thể làm líp ươm chìm hoặc nổi tùy thuộc vào điều kiện địa hình của vườn ươm.

– Mỗi líp ươm có chiều dài từ 8m -10m, chiều ngang khoảng 0,4m và cách nhau từ 0,6m – 0,8m, để dể dàng cho việc chăm sóc cây con và ghép cây sau này.

b)Thành phần hỗn hợp ruột bầu bao gồm:

Bầu ươm gốc ghép bằng nhựa PE đen, dày 0,15mm có kích thước từ 15x30cm đến 15x35cm. Được đục 9 – 12 lỗ từ đáy lên đến 20cm. Đất vào bầu được chộn theo tỷ lệ:

– Đất thịt nhe: 90 %.

– Phân các loại: 10 %, gồm:
      
      + Phân chuồng hoai (hoặc phân vi sinh): 95 %.

      + Phân Supre Lân: 5 %.

– 1 lượng ít thuốc chống kiến, mối, thuốc nấm và thuốc sâu đục thân Dithane M45, ViFudan 3G hoặc Furadan, …

Điều là giống cây dễ trồng, dễ chăm sóc. Ảnh: nuoitrong123.com
Điều là giống cây dễ trồng, dễ chăm sóc. Ảnh: nuoitrong123.com

2.3. Gieo ươm cây con làm gốc ghép

– Trước khi xử lý hạt, thả hạt vào nước (có thể pha thêm muối) để loại bỏ những hạt nổi.

– Hạt giống được xử lý bằng cách ngâm hạt từ 2 – 3 ngày trong nước. Thay nước một ngày 1 lần. Sau 2 ngày vớt ra, rửa sạch và ngày thứ 3 ngâm với nước có pha thuốc trừ sâu bệnh (Basudin 0,5% + Benlate C 0,5%) để hạn chế nấm bệnh tấn công và kiến đục thân khi hạt mới nẩy mầm. Sau đó vớt ra đem đi ủ trong bao hay trong cát sạch.

– Hạt giống nếu được ủ trong bao phải tưới nước thường xuyên để giữ độ ẩm cho hạt, mỗi ngày nên rửa chua 1 lần.

– Sau 2 – 3 ngày, lựa những hạt đã nứt nanh cấy vào bầu đất, đặt phần eo bụng của hạt tiếp xúc với mặt đất, quay phần lưng của hạt lên trên, dùng tay ấn hạt chìm xuống ngang mặt đất.

– Dùng rơm phủ lên trên để che mát cho hạt dễ nảy mầm. Tưới nước mỗi ngày.

– Tưới đủ nước và làm cỏ khi cây con còn nhỏ. Xịt Sherpa 25 EC để phòng trừ sâu bệnh hại lá non, sâu đục ngọn và bọ xít muỗi. Phun thuốc trừ nấm gốc đồng, Daconil hay Benlat theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất để phòng trừ bệnh lỡ cổ rễ, đặc biệt thường xảy ra trong những tháng đầu tiên khi thân cây con chưa hóa gỗ.

– Cây con sau 2 tháng tuổi nên đảo bầu 1 lần.

2.4 Thời gian tạo cây làm gốc ghép

– Thời gian gieo ươm tạo gốc ghép: từ 60 – 90 ngày tuổi.

– Thời vụ gieo ươm: có thể gieo ươm quanh năm.

2.5. Chuẩn bị chồi ghép

Để có đủ chồi ghép cho hàng năm, ta phải trồng vườn nhân chồi ghép hoặc có thể chọn chồi ghép từ những vườn sản xuất.

a) Thiết kế vườn nhân chồi ghép

– Vườn nhân chồi ghép được bố trí nơi đất tốt, gần vườn ươm cây con để tiện chăm sóc và lấy chồi ghép sau này. Nên trồng vườn nhân chồi ghép sớm hơn một năm để có thể cho một số lượng chồi đủ để tiến hành sản xuất giống cho năm sau. Chọn những cây Điều đã qua tuyển chon theo dõi để trồng làm vườn nhân chồi ghép. Có thể trồng nhiều giồng Điều khác nhau. Tuy nhiên, mỗi dòng Điều phải được trồng trong một khu vực riêng theo sơ đồ và có bảng tên phân biệt để tiện việc quản lý chồi ghép. Vườn nhân chồi ghép có thể trồng theo các kiểu thiết kế sau:

+ Cây trồng thành hàng kép 1 x 2m và các hàng kép cách nhau 3m.

+ Cây trồng thành hàng kép 3 x 3m và các hàng kép cách nhau 4m.

+ Cây trồng với mật độ 1m x 1m (hàng cách hàng 1m, cây cách cây 1m).

– Chăm sóc vườn nhân chồi ghép: Cần thường xuyên làm cỏ và bón phân sau khi cây phát triển hoàn chỉnh một đợt lá theo tỷ lệ N: P¬2O5 : K2O = 3 : 1 : 1 với liều lựơng 10 – 50g/cây tùy theo độ tuổi. Phun phân bón lá và chất kích thích sinh trưởng để cây ra nhiều chồi. Cần phải tưới nước trong mùa khô. Phun Sherpa và Benlat phòng trừ sâu bệnh. Khi cây 2 tầng lá thì tiến hành cắt ngọn để tạo tán thấp và nhiều cành cấp 1 – 2 để thu được nhiều chồi. Trong điều kiện chăm sóc tốt có thể thu hoạch từ 30 – 50 chồi/ cây năm thứ nhất và trên 100 chồi từ năm thứ 2 trở đi.

b) Chọn chồi từ vườn sản xuất (vườn đang thu hoạch quả)

Trong trường hợp không có vườn nhân chồi ghép thì có thể lấy chồi ghép ở các cây đầu dòng đạt những điều kiện sau:

– Chọn chồi ghép từ những cây có chất lượng cao, năng suất và chất lượng quả theo đúng yêu cầu của giống. Cũng có thể chọn chồi ở vườn sản xuất nhưng phải chọn ở những cây có từ 3 vụ quả trở lên và được theo dõi năng xuất ổn định qua nhiều năm. Tỷ lệ nhân hạt lớn hơn 28%, kích cỡ hạt < 160 hạt/kg, có 5 – 10 quả/chùm, tỷ lệ chồi ra hoa > 75%, cây sinh trưởng khỏe, phát tán đều và ít sau bệnh.

– Cần chú ý rằng các cây đầu dòng chưa được đánh giá và tuyển chọn ở những môi trường khác nhau nên khi sản xuất giống ghép cần hạn chế về số lượng cây ghép xuất phát từ một cây và không phát tán giống quá rộng.

c)Thời gian lấy chồi ghép

Thời gian lấy chồi ghép tốt nhất là ngay khi cây chuẩn bị phát đợt lá mới. Sau khi cắt chồi, tỉa bỏ phiến lá, giữ cho chồi tươi bằng cách bọc chồi trong vải ẩm, đặt vào thùng xốp, đậy kín thùng xốp và đặt nơi thoáng mát. Tiêu chuẩn chồi ghép phải đạt:

– Chồi vừa mới bật.

– Đường kính chồi > 0,6 cm.

– Chiều dài chồi từ 7-15 cm.

– Không bị sâu bệnh.

– Chồi ở ngoài sáng.

2.6. Ghép cây

– Làm giàn che cho cây ghép (lưới che sáng từ 50 – 70%).

– Sau khi cây con đạt từ 60 – 90 ngày tuổi, tiến hành ghép cây.

– Trước khi ghép cây từ 15 – 20 ngày, nên tiến hành đảo bầu để loại bỏ những cây dị dạng hay bị còi cọc, đồng thời phân loại theo tình trạng phát triển của cây và xếp lại. Hòa 1 ít phân Urê với nước để tưới cho cây.

– Có nhiều kiểu ghép khác nhau, thông thường ghép Điều thường sử dụng phương pháp ghép chồi vạt ngọt (ghép áp) hoặc ghép nêm vì 2 kiểu ghép này cho tỷ lệ sống cao nhất.

a) Kiểu ghép áp:

Dùng dao ghép vạt xiên thân gốc ghép một mặt phẳng nghiêng dài 3-4cm, cách mặt đất chừng 20 – 25cm. Chừa lại 2 – 3 lá thật trên gốc ghép. Đối với chồi ghép cũng vạt một mặt xiên tương tự, sau đó áp mặt cắt của chồi ghép vào gốc ghép. Nên lựa chồi ghép và gốc ghép có đường kính tương đồng để khi ghép tỷ lệ sống sẽ cao hơn. Nếu đường kính của chồi ghép và gốc ghép khác nhau thì nên để cho một bên mép vỏ của chồi ghép và gốc ghép liền khớp nhau. Dùng dây nilon tự hoại quấn chặt từ dưới lên trên để cố định và bịt kín chồi ghép.

b) Kiểu ghép nêm:

Dùng dao ghép cắt ngang thân gốc ghép cách mặt đất chừng 10-15cm. Chừa 2-3 lá thật trên gốc ghép. Sau đó chẻ đôi gốc ghép thành 2 phần bằng nhau và dài khỏang 3cm. Vạt xiên 2 bên chồi ghép thành hình nêm. Đặt chồi ghép vào vết chẻ ở gốc ghép. Nếu đường kính của chồi ghép và gốc ghép khác nhau thì nên để cho một bên mép vỏ của chồi ghép và gốc ghép liền khớp nhau. Dùng dây nilon tự hoại quấn chặt từ dưới lên trên để cố định và bịt kín chồi ghép.

c) Chăm sóc cây ghép:

– Sau khi ghép 10 – 15 ngày, ta tiến hành kiểm tra mắt ghép. Nếu thấy chỗ tiếp giáp giữa mắt ghép và gốc ghép đã hình thành mô sẹo (mối liên kết) và mắt ghép còn xanh thì mắt ghép đã sống. Sau khi thấy vết ghép phình to và chồi ghép phát triển lá non, ta tiến hành mở dây ghép (nếu sử dụng dây nilon thường) bằng cách dùng dao lam rạch nhẹ trên đỉnh chồi và loại bỏ các tược, chồi mọc từ thân gốc ghép. Nếu dùng dây nilon tự hoại thì chồi ghép tự xé dây ghép nảy chồi ra ngoài.

– Chăm sóc cây sau khi ghép cho đến khi cây xuất vườn: tưới ẩm đều, hòa loảng phân NPK tưới vào gốc ghép, tránh tưới lên lá vì phân NPK nóng dễ làm cháy lá hoặc bỏ phân trực tiếp vào gốc cây (mỗi cây từ 10 – 15 viên).

d) Thời gian và thời vụ ghép:

Nên ghép vào sáng sớm lúc trời mát lúc cây đã hút đủ nước qua đêm, thời gian ghép tốt nhất là từ 6 đến 10 giờ sáng, có thể cắt chồi ghép chuẩn bị từ chiều hôm trước. Không ghép cây lúc nắng to, cây dễ bị mất nước mặt cắt mau khô hay sau khi trời vừa dứt cơn mưa làm lá ướt, cây ghép dể bị nhiễm trùng. Tỷ lệ sống cao nhất khi cây được ghép vào thời kỳ mưa ổn định và có thể thu được chồi ghép đủ tiêu chuẩn. Thời vụ ghép thích hợp nhất là từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm cho các vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và tháng 1 đến tháng 9 cho vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên để có cây giống ghép trồng đầu mùa mưa, vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cần tiến hành gieo hạt vào tháng 1-2 và ghép vào đầu tháng 4 – 5 hàng năm.

e) Các điều kiện nâng cao tỷ lệ ghép sống:

– Lấy chồi đúng tiêu chuẩn.

– Giữ chồi nơi ẩm mát.

– Thao tác ghép nhanh gọn.

– Bịt kín chồi ghép.

– Tưới nuớc đều và tỉa chồi nách sau khi ghép.

f) Quy cách và phẩm chất cây xuất vườn:

– Chiều cao cây: 0,4 – 0,6m (tính từ miệng bầu).

– Đường kính cổ rễ: 0,8 – 1,2cm.

– Túi bầu ươm cây giống có kích thước: 15cm x 35cm.

– Cây ghép phải đạt từ: 8 – 12 lá trở lên.

– Cây ghép sinh trưởng tốt, không cong queo, sâu bệnh hại.

2.7. Phòng trừ một số bệnh hại thông thường đối với cây Điều ghép

Cây Điều thường dễ bị sâu bệnh trong vườn ươm, cần phải xịt thuốc thường xuyên để phòng trừ một số bệnh thường gặp sau:

a) Phòng bệnh thối cổ rễ:

Thường gặp loại bệnh này vào mùa mưa khi cây trong bầu không thoát nước kịp. Có thể sử dụng Bordeaux 1:4:15 (1 CuSO4 : 4 CaO : 15 H2O) phun lên gốc. Ngoài ra phun các loại thuốc có gốc đồng phòng bệnh lỡ cổ rễ.

b) Bệnh nấm rỉ sắt:

– Đây là loại bệnh thường gặp khi cây bị suy yếu do thiếu phân. Hiện tượng cây bị rỉ sắt là cây có lá màu vàng, trên lá có nhiều đốm đen màu như sắt bị rỉ sét.

– Cách phòng trừ: dùng Sameton 25wp để diệt trừ. Pha 6 – 8g Sameton 25wp cho bình 8 lít nước phun đẫm lên lá. Có thể dùng các loại thuốc khác như Bumper 25EC, Benzen 70WP.

c) Sâu đục thân:

– Đây là loại sâu xén tóc, con trưởng thành dài 40 – 45cm, có màu nâu đỏ và nâu hạt dẻ. Hiện tượng cây bị sâu hại là xuất hiện vết nhựa trên cây, cùng với các phần mềm cây bị đùn ra từ một lỗ nhỏ, lá cây bị vàng úa, cành cây bị khô héo và chết.

– Cách phòng trừ: dùng BHC 0,1% bột vào vùng bị hại sau khi đã lột bỏ lớp vỏ và phần mô bị hại. Loại luôn cả trứng, sâu non, nhộng. cây chết phải được cắt bỏ, đào luôn cả rễ đem đốt.

d) Bọ phấn đục nõn:

– Bọ phấn màu đen có vòi dài cứng, bọ trưởng thành dài khoảng 12mm, ngang 3mm. Bọ dùng vòi đục vào nõn non để đẻ trứng. hiện tượng bệnh đầu tiên để phát hiện là trên lá hay trên nõn bị vàng úa rồi khô héo.

– Cách phòng trừ: ta có thể dùng tay để bắt sâu trên cây. Những chồi non bị sâu đục, đẻ trứng bên trong, có cả sâu non và nhộng, ta nên cắt bỏ phần bị hại và đem đốt. Sau đó dùng thuốc trừ sâu có hoạt chất lưu dẫn như Monocrotophot 0,05% phun xịt lên vết cắt. Theo dõi, nếu mật độ quần thể sâu gia tăng ta phải phun xịt tiếp.

e) Xén tóc nâu:

– Xén tóc nâu là loại sâu phá đục thân và rễ rất nguy hiểm. Nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời cây có thể chết. Sâu trưởng thành có tập tính đẻ trứng vào vỏ gốc cây từ 1m trở xuống mặt đất. Ấu trùng nở ra đục vào phần mô vỏ cây, ăn mô vỏ tạo thành các đường hầm có nhiều ngõ ngách trong gỗ. Ở đầu miệng lỗ có nhựa cây và mùn cây bị đùn ra. Khi sâu non đục khoanh tròn toàn bộ chu vi thân cắt đứt tất cả mạch dẫn nhựa thì cây sẽ vàng lá và chết dần. Sâu thường tấn công một số cây riêng lẻ trong vườn, đặc biệt những cây ở mé vườn.

– Cách phòng trừ: Dùng dung dịch Bordeaux 1: 4: 15 (1 CuSO4 : 4 CaO: 15 H2O) quét quanh gốc từù 1,2m trở xuống để ngăn ngừa sâu trưởng thành đến đẻ trứng. Khi phát hiện thấy cây bị hại dùng dao sắc đẽo lớp vỏ lần dọc theo đường hầm để diệt sâu non và nhộng. Có thể bơm trực tiếp các loại thuốc trừ sâu xông hơi vào đường hầm để diệt sâu non. Phải đốn bỏ và thiêu hủy cây bị chết để tránh lây lan.

f) Bệnh khô cành:

– Bệnh do nấm Corticium salmonicolor còn gọi là nấm hồng gây ra. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa khi vườn cây có độ ẩm cao. Nấm thường tấn công vào các cành gây khô dần từ ngọn trở xuống. Lá trên cành bị bệnh vàng và rụng dần cùng với hiện tượng khô cành. Lúc đầu các đốm bệnh xuất hiện trên vỏ có màu trắng sau chuyển sang màu hồng. Bệnh thường tấn công vào vỏ chỗ phân cành. Bào tử lan dần xuống gốc theo nước chảy.

– Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, dọn cỏ và phát quang bụi rậm làm cho vườn thông thoáng, cắt tỉa và đốt các cánh bị sâu bệnh chết khô nhằm tiêu diệt mầm mống bệnh tiềm tàng trên vườn. Dùng Bordeaux 1: 4: 15 quét lên gốc. Phun thuốc gốc đồng phòng bệnh hại thân cành 2-3 lần vào đầu và giữa. Khi vườn bị bệnh, cắt bỏ cành bị bệnh và đốt đi. Dùng thuốc đặc trị : Validacin để phòng trừ.
Theo nuoitrong123.com

Có thể bạn quan tâm

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Tận dụng diện tích mặt nước rộng, hệ sinh thái thuận lợi của lòng hồ thủy điện An Khê - Kanak, nhiều hộ dân tại xã Cửu An, tỉnh Gia Lai đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè. Mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế địa phương.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Những năm gần đây, Trường Đại học Trà Vinh có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nâng cao hiệu quả sản xuất.

Thầy Danh Mến, giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ, đứng lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng TP. Cần Thơ, với sự hỗ trợ của màn hình LED hiện đại

Ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy tại Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ

Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ (thành phố Cần Thơ) đang tích cực chuyển đổi số, đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lý đào tạo thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà trường đã kết hợp kho học liệu điện tử hiện đại với giáo trình giấy truyền thống, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tăng sinh và học viên, đồng thời phát huy ngôn ngữ Pali - Khmer trong bối cảnh chuyển đổi số.

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

Chất lượng chính là mẫu số chung trong mọi giải pháp phát triển chanh leo. Từ giống cây, quy trình canh tác, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu - mỗi khâu đều đòi hỏi tiêu chuẩn cao, minh bạch và đồng bộ.

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Từ những luống gừng xanh tốt trên cao nguyên đá nơi địa đầu Tổ quốc, đồng bào Mông và Giáy ở Lũng Cú (tỉnh Tuyên Quang) đã mạnh dạn thay thế cây ngô kém hiệu quả, biến cây trồng quanh nhà thành cây kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Cây gừng bản địa không chỉ mở ra hướng thoát nghèo bền vững cho đồng bào vùng cao mà còn từng bước xây dựng thương hiệu, hướng tới sản xuất bền vững, gia tăng giá trị.

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

Tại vùng biên tỉnh Đồng Nai, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã thay đổi lối mòn canh tác cũ để làm giàu bền vững không chỉ trồng một loại cây mà là đa canh. Nhiều hộ đã kiên trì, dám thay đổi tận dụng khoa học kỹ thuật làm giàu trên chính mảnh đất của mình, biến những khó khăn thành cơ hội phát triển bền vững.

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Từ một thanh niên đam mê thủy sản và không ngừng học hỏi, anh Nguyễn Phúc Mến (sinh năm 1987, ngụ phường Bình Minh, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành một trong những người tiên phong và thành công với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn, có quy mô lớn tại địa phương. Mô hình này không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi mới cho ngành nông nghiệp ở Tây Ninh.

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Theo khảo sát của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, trồng rau màu thích ứng biến đổi khí hậu vùng ngọt hóa Gò Công lợi nhuận cao gấp 2 đến 7 lần so với trồng lúa, tùy theo loại rau màu. Cao nhất là rau ăn lá cho lợi nhuận bình quân trên 450 triệu đồng/năm, cao gấp 7 lần thu nhập từ cây lúa. Nhờ vậy, nông dân sống khỏe, tạo dựng cơ nghiệp bền vững, không còn lo thiên tai như trước.

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Các xã vùng núi Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa) từng có thời gian dài nằm trong diện nghèo nhất cả nước. Nhưng hiện nay, vùng đất này đang “thay da đổi thịt” nhờ lựa chọn đúng cây trồng “hái ra tiền” - sầu riêng.

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Với 43 dân tộc cùng sinh sống, rào cản ngôn ngữ là thách thức lớn nhất đối với học sinh dân tộc thiểu số tại Quảng Ngãi khi bước vào môi trường học đường. Để giúp các em tự tin giao tiếp và học tập, ngành Giáo dục đang đẩy mạnh việc dạy tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em chuẩn bị vào lớp 1.

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản mà còn mở ra hướng phát triển bền vững cho bà con nông dân. Tại phường Đức Xuân, tỉnh Thái Nguyên, cây chuối tiêu - từng là loại cây ít được chú ý nay đã trở thành nguyên liệu sản xuất tinh bột kháng - một sản phẩm công nghệ cao. Mô hình nông nghiệp mới này đang giúp người dân đổi đời, tạo ra hướng đi bền vững nhờ ứng dụng khoa học.

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Tỉnh Đắk Lắk đang bước vào cao điểm của sốt xuất huyết với số ca mắc liên tục tăng. Nhiều trường hợp bệnh nhân nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk cùng chính quyền địa phương đã và đang triển khai nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Song thực tế cho thấy vẫn còn không ít khó khăn, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội.

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Mặc dù lươn không bùn dễ nuôi, nhưng tận dụng được không gian hẹp, thị trường tiêu thụ rộng mở, giá bán tương đối ổn định, nên vài năm gần đây, nhiều hộ ở thành phố Cần Thơ lựa chọn mô hình nuôi lươn không bùn để phát triển kinh tế gia đình.

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, trong 2 ngày 13-14/8, xã biên giới Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh tổ chức phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030, với khẩu hiệu hành động “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”. Đại hội có sự tham dự của 170 đại biểu đại diện cho 421 đảng viên của Đảng bộ xã.

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Các xã Hậu Mỹ, Mỹ Thành, Thạnh Phú, Tân Phước 1, Tân Phước 2,… nằm về Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, trong vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây, thiên nhiên khắt nghiệt, vào mùa mưa lũ khoảng tháng 8, tháng 9 hàng năm, nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nhấn chìm nhà cửa, đồng ruộng gây nhiều thiệt hại làm cuộc sống nhân dân cơ cực, khó khăn.

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.