Kỹ thuật nhân giống cây điều

Kỹ thuật nhân giống cây điều
Chăm sóc điều trên diện tích trồng theo mô hình mới tại xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Ảnh: Dương Ngọc - TTXVN.
Chăm sóc điều trên diện tích trồng theo mô hình mới tại xã Cát Tường, huyện Phù Cát. Ảnh: Dương Ngọc - TTXVN.

1. Yêu cầu sinh thái

- Cây Điều thích hợp cho nhiều loại đất khác nhau (đất đồi trọc, đất triền đồi hoang hóa, đất kém phì nhiêu đất xám, đất đỏ vàng, đất phù sa…). Đặc biệt, cây Điều sinh trưởng và phát triển tốt trên tầng đất xám, đất đỏ vàng, đất phù sa nhưng phát triển kém trên tầng đất bị úng thủy.

– Điều sinh trưởng tốt với khí hậu nhiệt đới, chịu được biên độ dao động từ 7 – 46 độ C (thích hợp nhất là 24 – 28 độ C). Trong năm tháng nào nhiệt độ dưới 150C Điều sinh trưởng và phát triển giảm rõ rệt. Điều thích nghi với độ cao từ 500m hoặc 600m trở xuống so với mặt nước biển. Độ cao từ 700m trở lên cây Điều ghép sẽ sinh trưởng và phát triển kém. Lượng mưa thích hợp nhất trung bình từ 1.000 – 2.000mm/năm, nhưng vẫn sinh trưởng được ở lượng mưa từ 400 – 1.000mm/năm, độ ẩm < 75 % là thích hợp nhất. Sinh trưởng và phát triển của cây Điều liên quan chặt chẽ đến chế độ ánh sáng. Độ ngày dài và độ may che phủ. Ở những vùng có độ dài ngày và đêm bằng nhau rất thích hợp cho việc trồng Điều. Vùng có nhiều sương mù cây vẫn sinh trưởng bình thường nhưng cho trái kém, thích hợp với những vùng có thời gian chiếu sáng khoảng 2.000 giờ/năm.

2. Kỹ thuật gieo tạo nhân giống

2.1. Chuẩn bị vật tư

– Túi bầu: Pôlyêtilen 14 x 35cm không xếp gốc hoặc 10 x 35cm có xếp gốc.

– Đất: Đất thịt nhe hoặc đất thịt pha cát.

– Phân: Phân chuồng ủ hoai ( hoặc phân vi sinh ), Lân, Urê, NPK.

– Thuốc sâu: Thuốc trừ sâu các loại như Dithane M45, ViFudan 3G, Bi58, Thasudan, Bavistin 50FL, Bordeaux, Vôi, Chất bám dính…

– Hạt giống: Chọn hạt ở cây mẹ từ 5-7 tuổi, có từ 160-170 hạt/kg (có tán cây to khỏe, không bị khuyết tật, sâu bệnh, cây cho năng xuất cao).

– Các dụng cụ như: Dao ghép, kéo cắt cành, dây ghép nilon Trung Quốc, thuốc tím, rơm, lưới che, bạc lót và một số dụng cụ phục vụ cho vườn ươm…

2.2. Chuẩn bị vườn ươm gốc ghép (líp ươm và hỗn hợp ruột bầu)

Vườn ươm gốc ghép phải đặt nơi khô ráo, thoát nước tốt. Đặc biệt cây Điều con rất cần ánh sáng do đó vườn ươm phải quang đãng, không có cây cao che bóng.

a) Chuẩn bị líp ươm:

– Líp ươm phải được chuẩn bị trước khi gieo tạo cây con, có thể làm líp ươm chìm hoặc nổi tùy thuộc vào điều kiện địa hình của vườn ươm.

– Mỗi líp ươm có chiều dài từ 8m -10m, chiều ngang khoảng 0,4m và cách nhau từ 0,6m – 0,8m, để dể dàng cho việc chăm sóc cây con và ghép cây sau này.

b)Thành phần hỗn hợp ruột bầu bao gồm:

Bầu ươm gốc ghép bằng nhựa PE đen, dày 0,15mm có kích thước từ 15x30cm đến 15x35cm. Được đục 9 – 12 lỗ từ đáy lên đến 20cm. Đất vào bầu được chộn theo tỷ lệ:

– Đất thịt nhe: 90 %.

– Phân các loại: 10 %, gồm:
      
      + Phân chuồng hoai (hoặc phân vi sinh): 95 %.

      + Phân Supre Lân: 5 %.

– 1 lượng ít thuốc chống kiến, mối, thuốc nấm và thuốc sâu đục thân Dithane M45, ViFudan 3G hoặc Furadan, …

Điều là giống cây dễ trồng, dễ chăm sóc. Ảnh: nuoitrong123.com
Điều là giống cây dễ trồng, dễ chăm sóc. Ảnh: nuoitrong123.com

2.3. Gieo ươm cây con làm gốc ghép

– Trước khi xử lý hạt, thả hạt vào nước (có thể pha thêm muối) để loại bỏ những hạt nổi.

– Hạt giống được xử lý bằng cách ngâm hạt từ 2 – 3 ngày trong nước. Thay nước một ngày 1 lần. Sau 2 ngày vớt ra, rửa sạch và ngày thứ 3 ngâm với nước có pha thuốc trừ sâu bệnh (Basudin 0,5% + Benlate C 0,5%) để hạn chế nấm bệnh tấn công và kiến đục thân khi hạt mới nẩy mầm. Sau đó vớt ra đem đi ủ trong bao hay trong cát sạch.

– Hạt giống nếu được ủ trong bao phải tưới nước thường xuyên để giữ độ ẩm cho hạt, mỗi ngày nên rửa chua 1 lần.

– Sau 2 – 3 ngày, lựa những hạt đã nứt nanh cấy vào bầu đất, đặt phần eo bụng của hạt tiếp xúc với mặt đất, quay phần lưng của hạt lên trên, dùng tay ấn hạt chìm xuống ngang mặt đất.

– Dùng rơm phủ lên trên để che mát cho hạt dễ nảy mầm. Tưới nước mỗi ngày.

– Tưới đủ nước và làm cỏ khi cây con còn nhỏ. Xịt Sherpa 25 EC để phòng trừ sâu bệnh hại lá non, sâu đục ngọn và bọ xít muỗi. Phun thuốc trừ nấm gốc đồng, Daconil hay Benlat theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất để phòng trừ bệnh lỡ cổ rễ, đặc biệt thường xảy ra trong những tháng đầu tiên khi thân cây con chưa hóa gỗ.

– Cây con sau 2 tháng tuổi nên đảo bầu 1 lần.

2.4 Thời gian tạo cây làm gốc ghép

– Thời gian gieo ươm tạo gốc ghép: từ 60 – 90 ngày tuổi.

– Thời vụ gieo ươm: có thể gieo ươm quanh năm.

2.5. Chuẩn bị chồi ghép

Để có đủ chồi ghép cho hàng năm, ta phải trồng vườn nhân chồi ghép hoặc có thể chọn chồi ghép từ những vườn sản xuất.

a) Thiết kế vườn nhân chồi ghép

– Vườn nhân chồi ghép được bố trí nơi đất tốt, gần vườn ươm cây con để tiện chăm sóc và lấy chồi ghép sau này. Nên trồng vườn nhân chồi ghép sớm hơn một năm để có thể cho một số lượng chồi đủ để tiến hành sản xuất giống cho năm sau. Chọn những cây Điều đã qua tuyển chon theo dõi để trồng làm vườn nhân chồi ghép. Có thể trồng nhiều giồng Điều khác nhau. Tuy nhiên, mỗi dòng Điều phải được trồng trong một khu vực riêng theo sơ đồ và có bảng tên phân biệt để tiện việc quản lý chồi ghép. Vườn nhân chồi ghép có thể trồng theo các kiểu thiết kế sau:

+ Cây trồng thành hàng kép 1 x 2m và các hàng kép cách nhau 3m.

+ Cây trồng thành hàng kép 3 x 3m và các hàng kép cách nhau 4m.

+ Cây trồng với mật độ 1m x 1m (hàng cách hàng 1m, cây cách cây 1m).

– Chăm sóc vườn nhân chồi ghép: Cần thường xuyên làm cỏ và bón phân sau khi cây phát triển hoàn chỉnh một đợt lá theo tỷ lệ N: P¬2O5 : K2O = 3 : 1 : 1 với liều lựơng 10 – 50g/cây tùy theo độ tuổi. Phun phân bón lá và chất kích thích sinh trưởng để cây ra nhiều chồi. Cần phải tưới nước trong mùa khô. Phun Sherpa và Benlat phòng trừ sâu bệnh. Khi cây 2 tầng lá thì tiến hành cắt ngọn để tạo tán thấp và nhiều cành cấp 1 – 2 để thu được nhiều chồi. Trong điều kiện chăm sóc tốt có thể thu hoạch từ 30 – 50 chồi/ cây năm thứ nhất và trên 100 chồi từ năm thứ 2 trở đi.

b) Chọn chồi từ vườn sản xuất (vườn đang thu hoạch quả)

Trong trường hợp không có vườn nhân chồi ghép thì có thể lấy chồi ghép ở các cây đầu dòng đạt những điều kiện sau:

– Chọn chồi ghép từ những cây có chất lượng cao, năng suất và chất lượng quả theo đúng yêu cầu của giống. Cũng có thể chọn chồi ở vườn sản xuất nhưng phải chọn ở những cây có từ 3 vụ quả trở lên và được theo dõi năng xuất ổn định qua nhiều năm. Tỷ lệ nhân hạt lớn hơn 28%, kích cỡ hạt < 160 hạt/kg, có 5 – 10 quả/chùm, tỷ lệ chồi ra hoa > 75%, cây sinh trưởng khỏe, phát tán đều và ít sau bệnh.

– Cần chú ý rằng các cây đầu dòng chưa được đánh giá và tuyển chọn ở những môi trường khác nhau nên khi sản xuất giống ghép cần hạn chế về số lượng cây ghép xuất phát từ một cây và không phát tán giống quá rộng.

c)Thời gian lấy chồi ghép

Thời gian lấy chồi ghép tốt nhất là ngay khi cây chuẩn bị phát đợt lá mới. Sau khi cắt chồi, tỉa bỏ phiến lá, giữ cho chồi tươi bằng cách bọc chồi trong vải ẩm, đặt vào thùng xốp, đậy kín thùng xốp và đặt nơi thoáng mát. Tiêu chuẩn chồi ghép phải đạt:

– Chồi vừa mới bật.

– Đường kính chồi > 0,6 cm.

– Chiều dài chồi từ 7-15 cm.

– Không bị sâu bệnh.

– Chồi ở ngoài sáng.

2.6. Ghép cây

– Làm giàn che cho cây ghép (lưới che sáng từ 50 – 70%).

– Sau khi cây con đạt từ 60 – 90 ngày tuổi, tiến hành ghép cây.

– Trước khi ghép cây từ 15 – 20 ngày, nên tiến hành đảo bầu để loại bỏ những cây dị dạng hay bị còi cọc, đồng thời phân loại theo tình trạng phát triển của cây và xếp lại. Hòa 1 ít phân Urê với nước để tưới cho cây.

– Có nhiều kiểu ghép khác nhau, thông thường ghép Điều thường sử dụng phương pháp ghép chồi vạt ngọt (ghép áp) hoặc ghép nêm vì 2 kiểu ghép này cho tỷ lệ sống cao nhất.

a) Kiểu ghép áp:

Dùng dao ghép vạt xiên thân gốc ghép một mặt phẳng nghiêng dài 3-4cm, cách mặt đất chừng 20 – 25cm. Chừa lại 2 – 3 lá thật trên gốc ghép. Đối với chồi ghép cũng vạt một mặt xiên tương tự, sau đó áp mặt cắt của chồi ghép vào gốc ghép. Nên lựa chồi ghép và gốc ghép có đường kính tương đồng để khi ghép tỷ lệ sống sẽ cao hơn. Nếu đường kính của chồi ghép và gốc ghép khác nhau thì nên để cho một bên mép vỏ của chồi ghép và gốc ghép liền khớp nhau. Dùng dây nilon tự hoại quấn chặt từ dưới lên trên để cố định và bịt kín chồi ghép.

b) Kiểu ghép nêm:

Dùng dao ghép cắt ngang thân gốc ghép cách mặt đất chừng 10-15cm. Chừa 2-3 lá thật trên gốc ghép. Sau đó chẻ đôi gốc ghép thành 2 phần bằng nhau và dài khỏang 3cm. Vạt xiên 2 bên chồi ghép thành hình nêm. Đặt chồi ghép vào vết chẻ ở gốc ghép. Nếu đường kính của chồi ghép và gốc ghép khác nhau thì nên để cho một bên mép vỏ của chồi ghép và gốc ghép liền khớp nhau. Dùng dây nilon tự hoại quấn chặt từ dưới lên trên để cố định và bịt kín chồi ghép.

c) Chăm sóc cây ghép:

– Sau khi ghép 10 – 15 ngày, ta tiến hành kiểm tra mắt ghép. Nếu thấy chỗ tiếp giáp giữa mắt ghép và gốc ghép đã hình thành mô sẹo (mối liên kết) và mắt ghép còn xanh thì mắt ghép đã sống. Sau khi thấy vết ghép phình to và chồi ghép phát triển lá non, ta tiến hành mở dây ghép (nếu sử dụng dây nilon thường) bằng cách dùng dao lam rạch nhẹ trên đỉnh chồi và loại bỏ các tược, chồi mọc từ thân gốc ghép. Nếu dùng dây nilon tự hoại thì chồi ghép tự xé dây ghép nảy chồi ra ngoài.

– Chăm sóc cây sau khi ghép cho đến khi cây xuất vườn: tưới ẩm đều, hòa loảng phân NPK tưới vào gốc ghép, tránh tưới lên lá vì phân NPK nóng dễ làm cháy lá hoặc bỏ phân trực tiếp vào gốc cây (mỗi cây từ 10 – 15 viên).

d) Thời gian và thời vụ ghép:

Nên ghép vào sáng sớm lúc trời mát lúc cây đã hút đủ nước qua đêm, thời gian ghép tốt nhất là từ 6 đến 10 giờ sáng, có thể cắt chồi ghép chuẩn bị từ chiều hôm trước. Không ghép cây lúc nắng to, cây dễ bị mất nước mặt cắt mau khô hay sau khi trời vừa dứt cơn mưa làm lá ướt, cây ghép dể bị nhiễm trùng. Tỷ lệ sống cao nhất khi cây được ghép vào thời kỳ mưa ổn định và có thể thu được chồi ghép đủ tiêu chuẩn. Thời vụ ghép thích hợp nhất là từ tháng 7 đến tháng 10 hàng năm cho các vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và tháng 1 đến tháng 9 cho vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên để có cây giống ghép trồng đầu mùa mưa, vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cần tiến hành gieo hạt vào tháng 1-2 và ghép vào đầu tháng 4 – 5 hàng năm.

e) Các điều kiện nâng cao tỷ lệ ghép sống:

– Lấy chồi đúng tiêu chuẩn.

– Giữ chồi nơi ẩm mát.

– Thao tác ghép nhanh gọn.

– Bịt kín chồi ghép.

– Tưới nuớc đều và tỉa chồi nách sau khi ghép.

f) Quy cách và phẩm chất cây xuất vườn:

– Chiều cao cây: 0,4 – 0,6m (tính từ miệng bầu).

– Đường kính cổ rễ: 0,8 – 1,2cm.

– Túi bầu ươm cây giống có kích thước: 15cm x 35cm.

– Cây ghép phải đạt từ: 8 – 12 lá trở lên.

– Cây ghép sinh trưởng tốt, không cong queo, sâu bệnh hại.

2.7. Phòng trừ một số bệnh hại thông thường đối với cây Điều ghép

Cây Điều thường dễ bị sâu bệnh trong vườn ươm, cần phải xịt thuốc thường xuyên để phòng trừ một số bệnh thường gặp sau:

a) Phòng bệnh thối cổ rễ:

Thường gặp loại bệnh này vào mùa mưa khi cây trong bầu không thoát nước kịp. Có thể sử dụng Bordeaux 1:4:15 (1 CuSO4 : 4 CaO : 15 H2O) phun lên gốc. Ngoài ra phun các loại thuốc có gốc đồng phòng bệnh lỡ cổ rễ.

b) Bệnh nấm rỉ sắt:

– Đây là loại bệnh thường gặp khi cây bị suy yếu do thiếu phân. Hiện tượng cây bị rỉ sắt là cây có lá màu vàng, trên lá có nhiều đốm đen màu như sắt bị rỉ sét.

– Cách phòng trừ: dùng Sameton 25wp để diệt trừ. Pha 6 – 8g Sameton 25wp cho bình 8 lít nước phun đẫm lên lá. Có thể dùng các loại thuốc khác như Bumper 25EC, Benzen 70WP.

c) Sâu đục thân:

– Đây là loại sâu xén tóc, con trưởng thành dài 40 – 45cm, có màu nâu đỏ và nâu hạt dẻ. Hiện tượng cây bị sâu hại là xuất hiện vết nhựa trên cây, cùng với các phần mềm cây bị đùn ra từ một lỗ nhỏ, lá cây bị vàng úa, cành cây bị khô héo và chết.

– Cách phòng trừ: dùng BHC 0,1% bột vào vùng bị hại sau khi đã lột bỏ lớp vỏ và phần mô bị hại. Loại luôn cả trứng, sâu non, nhộng. cây chết phải được cắt bỏ, đào luôn cả rễ đem đốt.

d) Bọ phấn đục nõn:

– Bọ phấn màu đen có vòi dài cứng, bọ trưởng thành dài khoảng 12mm, ngang 3mm. Bọ dùng vòi đục vào nõn non để đẻ trứng. hiện tượng bệnh đầu tiên để phát hiện là trên lá hay trên nõn bị vàng úa rồi khô héo.

– Cách phòng trừ: ta có thể dùng tay để bắt sâu trên cây. Những chồi non bị sâu đục, đẻ trứng bên trong, có cả sâu non và nhộng, ta nên cắt bỏ phần bị hại và đem đốt. Sau đó dùng thuốc trừ sâu có hoạt chất lưu dẫn như Monocrotophot 0,05% phun xịt lên vết cắt. Theo dõi, nếu mật độ quần thể sâu gia tăng ta phải phun xịt tiếp.

e) Xén tóc nâu:

– Xén tóc nâu là loại sâu phá đục thân và rễ rất nguy hiểm. Nếu không phát hiện và chữa trị kịp thời cây có thể chết. Sâu trưởng thành có tập tính đẻ trứng vào vỏ gốc cây từ 1m trở xuống mặt đất. Ấu trùng nở ra đục vào phần mô vỏ cây, ăn mô vỏ tạo thành các đường hầm có nhiều ngõ ngách trong gỗ. Ở đầu miệng lỗ có nhựa cây và mùn cây bị đùn ra. Khi sâu non đục khoanh tròn toàn bộ chu vi thân cắt đứt tất cả mạch dẫn nhựa thì cây sẽ vàng lá và chết dần. Sâu thường tấn công một số cây riêng lẻ trong vườn, đặc biệt những cây ở mé vườn.

– Cách phòng trừ: Dùng dung dịch Bordeaux 1: 4: 15 (1 CuSO4 : 4 CaO: 15 H2O) quét quanh gốc từù 1,2m trở xuống để ngăn ngừa sâu trưởng thành đến đẻ trứng. Khi phát hiện thấy cây bị hại dùng dao sắc đẽo lớp vỏ lần dọc theo đường hầm để diệt sâu non và nhộng. Có thể bơm trực tiếp các loại thuốc trừ sâu xông hơi vào đường hầm để diệt sâu non. Phải đốn bỏ và thiêu hủy cây bị chết để tránh lây lan.

f) Bệnh khô cành:

– Bệnh do nấm Corticium salmonicolor còn gọi là nấm hồng gây ra. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa khi vườn cây có độ ẩm cao. Nấm thường tấn công vào các cành gây khô dần từ ngọn trở xuống. Lá trên cành bị bệnh vàng và rụng dần cùng với hiện tượng khô cành. Lúc đầu các đốm bệnh xuất hiện trên vỏ có màu trắng sau chuyển sang màu hồng. Bệnh thường tấn công vào vỏ chỗ phân cành. Bào tử lan dần xuống gốc theo nước chảy.

– Cách phòng trừ: Vệ sinh đồng ruộng, dọn cỏ và phát quang bụi rậm làm cho vườn thông thoáng, cắt tỉa và đốt các cánh bị sâu bệnh chết khô nhằm tiêu diệt mầm mống bệnh tiềm tàng trên vườn. Dùng Bordeaux 1: 4: 15 quét lên gốc. Phun thuốc gốc đồng phòng bệnh hại thân cành 2-3 lần vào đầu và giữa. Khi vườn bị bệnh, cắt bỏ cành bị bệnh và đốt đi. Dùng thuốc đặc trị : Validacin để phòng trừ.
Theo nuoitrong123.com

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.