Kỹ thuật nuôi cá Chiên lồng

Kỹ thuật nuôi cá Chiên lồng
Nuôi cá chiên lồng ở Tuyên Quang. Ảnh:tepbac.com
Nuôi cá chiên lồng ở Tuyên Quang. Ảnh:tepbac.com

Hiện nay, sản lượng cá Chiên phần lớn từ khai thác tự nhiên và đang có nguy cơ cạn kiệt. Một số hộ dân ở các xã vùng hồ sông Đà đã thử nghiệm nuôi nhốt trong lồng, năng suất chỉ đạt trung bình từ 20 – 25 kg/lồng. Tuy năng suất và sản lượng không cao nhưng bước đầu cho thấy khả năng thích nghi với điều kiện nuôi lồng của cá Chiên. Phần lớn các hộ nuôi cá Chiên lồng chủ yếu là gom nhốt cá, chưa áp dụng quy trình kỹ thuật, đặc biệt là chế độ cho cá ăn, chăm sóc và phòng bệnh cho cá, vì vậy cá chậm lớn, hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với giátrị kinh tế của nó. Với mong muốn giúp bà con nắm được kỹ thuật nuôi cá Chiên để phát triển nghề nuôi thuỷ sản mới, nhằm mục đích từng bước vươn lên xóa đói giảm nghèo và tiến tới làm giàu, chúng tôi giới thiệu đọc giả “Kỹ thuật nuôi cá Chiên lồng”.

1. Thiết kế lồng nuôi bằng thép

a) Vật liệu

Toàn bộ khung lồng làm bằng sắt dẹt, mỗi cây dài 8m. Thùng phi nhựa, dâythép để liên kết phi sắt với khung lồng. Ngoài ra còn có dây neo cố định khung lồng.

b) Thiết kế khung lồng

Lồng có kích thước 8m x 2,5m x 2m, gồm 1 dãy với 2 ô, mỗi ô kích thước 4m x 2m x 2,5m. Phao làm bằng thùng phi hoặc phi nhựa và được cố định vớikhung lồng.Toàn bộ các thanh sắt dọc và ngang được hàn gắn chặt với nhau tạo thànhcác vách lồng, mỗi vách gồm rất nhiều nan, các nan lồng cách nhau 1,5 cm.Sau đó các vách lồng sẽ được gắn lại với nhau bằng các bu lông tạo thànhlồng. Các phi nhựa (phao) được liên kết với khung lồng bằng dây thép buộc vào cây luồng để đảm bảo cho lồng nổi.

2. Chọn vị trí nuôi

– Địa điểm đặt lồng bè phải có nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm bởi nướcthải sinh hoạt, chất thải công nghiệp.

– Môi trường nuôi phải đảm bảo các yếu tố sau: pH 7,0 – 8,0; oxy hoà tan < 5 mg/lít; NH3 < 0,01 mg/lít; H2S < 0,01 mg/lít. Chọn nơi thông thoáng, không nên nuôi tại các điểm cuối của eo nghách. Độ sâu điểm đặt lồng trên hồchứa có độ sâu lớn hơn 4m tại thời điểm mực nước hồ xuống thấp nhất.

– Mật độ lồng nuôi trên hồ chứa không quá dày. Mỗi cụm lồng không quánhiều lồng tốt nhất mỗi cụm nuôi khoảng 3 – 5lồng. Các cụm lồng cách nhau 10 – 15m.

3. Chọn giống và thả giống

– Cá giống phải khỏe mạnh, không dị hình, xây xát, kích cỡ đồng đều, không bị mất nhớt. Cá hoạt động linh hoạt, bơi lội nhanh nhẹn.

– Kích cỡ cá giống: Đối với nuôi trong lồng yêu cầu kích thước cá giống 20 – 25 cm. Cá giống này đã được nuôi trong ao cho đến khi đạt kích thước trên mớiđưa ra thả trong lồng.

– Mật độ thả: Nuôi lồng trên hồ chứa thả 7,5 con/m3 lồng.

– Mùa vụ thả giống: Tốt nhất nên thả giống nuôi vào tháng 3 – tháng 10 vànuôi 2 vụ/năm.

– Khi thả cá, cân bằng môi trường bằng cách ngâm bao chứa cá vào lồngnuôi trong thời gian 10 – 15 phút, sau đó cho nước từ từ vào miệng túi và tiến hànhthả cá.

4. Cho ăn

– Thức ăn cho cá Chiên sử dụng trong quá trình nuôi chủ yếu là các loại: thức ăn công nghiệ p, thức ăn tự chếbiến và cá tạp.

– Dùng thức ăn công nghiệ p dạng viên nổi và không tan trong nước sẽ hạn chế sự thất thoát thức ăn và giảm thiểu ô nhiễm nước nuôi. Cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệ p hoặc thức ăn chếbiến có hàm lượng đạm 18 – 30%.

– Thức ăn chếbiến được làm từ các nguyên liệu sẵn cóởđịa phương để phối chế thành thức ăn cho cá Chiên. Các nguyên liệu cần tính toán hợ p lý để đảm bảo hàm lượng dinh dưỡng, quan trọng nhất là đạm theo nhu cầu của cá Chiên. Thành phần thức ăn chế biến ta có thể sử dụng 1 trong 3 công thức sau:

+ Công thức 1: Cám gạo 60 % + bột ngô (bắ p) 20% + bột cá20%.
+ Công thức 2: Cám gạo 40% + bột ngô (bắp) 20% + khô dầu lạc 40% hoặc cho ăn cá tạp.
+ Công thức 3: Cho ăn cá tạp 100%.

– Các loại thức ăn tự chế được nấu chín để nguội và nắm thành từng nắm nhỏ để cho cáăn trong sàn ăn. Cho cáăn từtừ, từng ít một cho đến khi hết thức ăn, tránh hiện tượng cá tranh giành thức ăn quá mạnh, làm thức ăn tan vào nước ao gây thất thoát. Không nên cho cá Chiên ăn thức ăn dạng bột vìthức ăn bịtan trong nước vừa lãng phívừa làm ô nhiễm môi trường nuôi.

– Thức ăn được chia đều làm 2 phần, cho cá ăn vào lúc sáng (6 – 7h) và chiều (17 – 18h). Cho cá ăn đúng giờđểtạo phản xạcho cá.

– Trong quá trình nuôi cần theo dõi tăng trưởng của cá để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chu kỳ điều chỉnh thức ăn là 10 ngày/1lần. Cứ 10 ngày kiểm tra tốc độ sinh trưởng cá 1 lần trên cơ sở đó ước lượng được khối lượng cá trong ao. Lượng thức ăn cho ăn trong giai đoạn đầu bằng 5 – 6% khối lượng cá nuôi. Khi cá đạt cỡ100g cho ăn 3 – 4%, khi cá đạt trên 200g cho ăn 2%.

5. Quản lý lồng nuôi

– Hàng ngày quan sát hoạt động của cá trong các lồng nuôi, tình hình sửdụng thức ăn và các hiện tượng bất thường khác xảy ra.

– Mỗi tuần vệ sinh lồng một lần, dùng bàn chải nhựa cọ sạch các cạnh bênlồng lưới. Việc vệ sinh lồng tiến hành trước các bữa ăn của cá.

– Trong quá trình vệ sinh cần kiểm tra lồng, phát hiện kịp thời các vết rách,rạn nứt để kịp thời khắc phục các vết rách nhằm hạn chế cá đi mất.

– Loại bỏ rác trôi nổi và các vật cứng vào khu bè nuôi.

– Vào mùa mưa lũ phải kiểm tra cá dây neo bè, di chuyển lồng vào vị trí antoàn khi có bão, lũ.

– Khi cá có các dấu hiệu bất thường sau cần phải có biện pháp xử lý ngay:

+ Thay đổi màu sắc bất thường;
+ Cá kém ăn hoặc bỏ ăn;
+ Cá bơi lội bất thường;
+ Cá bị lồi mắt, lở loét, xuất huyết trên thân.

6. Phòng trị bệnh

6.1 Bệnh nhiễm khuẩn

a) Dấu hiệu bệnh:

– Mầm bệnh là các vi khuẩn (Aeromonas spp) thường xuyên có mặt trongnước, các chất thải từ cá và có thể từ nguồn thức ăn (cá tạp ôi…).

– Cơ quan bị nhiễm: Vây, thân, mắt và các nội quan.

– Dấu hiệu bệnh: Các vết loét và xuất huyết trên thân, xơ vây, lồi và loétmắt.

– Cá bị nhiễm khuẩn khi: Nuôi cá với mật độ cao, chất lượng nước và thứcăn kém, cá bị xây sát do đánh bắt hoặc do ký sinh trùng bám.

b) Phòng và trị:

– Cần tính toán mật độ thả cho phù hợp.

– Thường xuyên vệ sinh lồng lưới để đảm bảo cho sự lưu thông nước vàtránh làm tổn thương cá trong quá trình thao tác.

– Quản lý thức ăn và môi trường nước nuôi.

– Loại bỏ những con bị bệnh nặng.

– Tắm cho cá bằng iodine sau khi dùng kháng sinh.

– Trộn kháng sinh vào thức ăn cho cá ăn liền trong 7 ngày.

6.2 Bệnh nấm

a) Dấu hiệu bệnh:

– Cơ quan bị nhiễm: Cơ và các cơ quan bên trong.

– Hình thái nấm: Đám màu trắng, có thể nhìn thấy sợi.

– Bệnh ít gây chết nhưng làm mất giá trị của cá.

b) Cách phòng trị:

– Tránh gây tổn thương cho cá đặc biệt trong mùa lạnh.

– Loại bỏ cá bị nhiễm nặng.

– Xử lý bệnh bằng nước muối.

6.3 Bệnh Ký sinh trùng

a) Dấu hiệu bệnh:

– Tác nhân gây bệnh: Trùng bánh xe, sán, rận cá, bào tử trùng, đỉa…

– Cơ quan bị ảnh hưởng: Da, mang, vây và thân.

– Dấu hiệu: Cá bơi không định hướng, ngứa ngáy và hay cọ sát vào thành lồng. Cá chuyển màu sẫm, mang nhợt nhạt, da và mang có thể bị hoại tử, cá chết nhiều nếu không xử lý kịp và đặc biệt ở cá hương, cá giống.

b) Cách phòng và trị:

Tắm cho cá bằng 1 trong các hoá chất sau: CuSO4 (0,5ppm), nước muối 3%. Khi xử lý cần chú ý cung cấp đủ ô xy hoà tan.

7. Thu hoạch

Sau 12 tháng khi cá đạt kích cỡ thương phẩm (1,5 – 2 kg) thì tiến hành thu tỉa cá đạt kích cỡ lớn, cá nhỏ hơn tiếp tục nuôi đến cuối vụ để đạt kích cỡ thương phẩm thì thu hoạch toàn bộ.
Theo: kythuatnuoitrong.com

Có thể bạn quan tâm

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.