Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Không gian trưng bày giới thiệu hơn 200 hình ảnh tiêu biểu về dân tộc Sán Dìu, trên 50 hiện vật được sưu tầm trực tiếp từ các hộ gia đình, nghệ nhân, cùng gần 90 hình ảnh về văn hóa các dân tộc Dao, Sán Chí, Cao Lan. Những tư liệu này góp phần tái hiện đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng, dân ca, dân vũ và trang phục truyền thống của đồng bào, tạo nên bức tranh văn hóa đa sắc của các dân tộc thiểu số đang sinh sống tại Bắc Ninh.
Dụng cụ lao động của người dân tộc tại trưng bày.
Sự kiện còn có các hoạt động trình diễn trực tiếp như hát dân ca Sán Dìu, múa chuông Dao, múa cầu mùa của người Sán Chí, trình diễn nghề thủ công và giới thiệu ẩm thực truyền thống. Đây là lần đầu tiên Bảo tàng Bắc Ninh số 1 tổ chức trình diễn tổng hợp nhiều loại hình văn hóa, mang đến trải nghiệm chân thực và sinh động cho người tham quan về văn hóa dân tộc thiểu số.
Trang phục truyền thống của người dân tộc.
Giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh số 1 Phùng Thị Mai Anh cho biết: Từ đầu năm 2025, Bảo tàng triển khai chương trình khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa người Sán Dìu tại 48 thôn và tổ dân phố thuộc 11 xã, phường. Kết quả thu được hơn 600 ảnh tư liệu, 2 phim chuyên đề cùng nhiều hiện vật gốc phản ánh đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng. Đây là nguồn dữ liệu khoa học quan trọng để đánh giá thực trạng di sản, đề xuất giải pháp bảo tồn và xây dựng hồ sơ đưa một số loại hình vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Khách tham quan trưng bày.
Ông Ân Ngọc Lương, Phó Chủ tịch Hội Bảo tồn và Phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh, bày tỏ sự phấn khởi, tự hào khi giá trị văn hóa Sán Dìu tiếp tục được quan tâm và tôn vinh, các loại hình dân ca di sản như then Tày, sọng cô Sán Chí, sình ca Cao Lan được công nhận. Hội Bảo tồn và Phát triển văn hóa dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh, thành lập từ năm 2022, đã tổ chức 32 lớp dạy tiếng Sán Dìu cho gần 700 học viên trong hai năm 2023-2024 với nguồn kinh phí hoàn toàn xã hội hóa.
Các đại biểu tham quan trưng bày.
Năm 2025, Hội tiếp tục phối hợp mở 14 lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số, trong đó có 12 lớp dành cho tiếng Sán Dìu, biên soạn tập dân ca Sán Dìu, dự kiến xuất bản trong năm 2025. Tuy nhiên, công tác bảo tồn đang gặp không ít khó khăn khi phần lớn gia đình người Sán Dìu dùng tiếng Kinh trong sinh hoạt, giới trẻ ít biết nói tiếng mẹ đẻ và số người am hiểu chữ viết dân tộc còn rất hạn chế. Vì vậy, ông đề nghị các cấp chính quyền tiếp tục quan tâm, bố trí ngân sách hoặc lồng ghép từ các chương trình mục tiêu quốc gia để duy trì hiệu quả hoạt động bảo tồn lâu dài.
Làm bánh boong truyền thống.
Sau lễ khai mạc trưng bày, đại biểu và nhân dân tham quan khu vực trưng bày tại sảnh tầng 1 cùng các hoạt động trải nghiệm ngoài trời nhằm tăng tính tương tác giữa du khách và di sản. Chương trình góp phần tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, tăng cường nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm gìn giữ và phát huy di sản văn hóa trong bối cảnh hiện đại.
Tái hiện lễ cưới của đồng bào dân tộc.
Trưng bày “Văn hóa dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Ninh - Sắc màu hội tụ” là hoạt động có chiều sâu, thể hiện tâm huyết của đội ngũ cán bộ bảo tàng trong việc gìn giữ ký ức văn hóa địa phương, đồng thời tạo điểm nhấn thu hút du khách và hỗ trợ phát triển du lịch văn hóa tỉnh Bắc Ninh.
Trình diễn điệu nhảy tắc xình.
Bảo tàng Bắc Ninh số 1 mở cửa phục vụ khách tham quan trưng bày từ ngày 21/11 đến hết ngày 10/12/2025./.
Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân).
Tên gọi khác: Trại, Trại Ðất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...
Ngôn ngữ: Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng).
Dân số: 146.821 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Lịch sử: Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.
Hoạt động sản xuất: Người Sán Dìu có làm ruộng nước nhưng không nhiều, canh tác ruộng khô là chính. Ngoài các loại cây trồng thường thấy ở nhiều vùng như lúa, ngô, khoai, sắn... họ còn trồng nhiều cây có củ.
Từ rất lâu họ biết dùng phân bón ruộng. Nhờ đắp thêm mũi phụ, lưỡi cày của họ trở nên bền, sắc và thích hợp hơn với việc cày ở nơi đất cứng, nhiều sỏi đá.
Ăn: Người Sán Dìu ăn cơm tẻ là chính, có độn thêm khoai sắn. Sau bữa ăn, họ thường húp thêm bát cháo loãng như người Nùng.
Mặc: Bộ Y phục truyền thống của phụ nữ gồm khăn đen, áo dài (đơn hoặc kép), nếu là áo kép thì bao giờ chiếc bên trong cũng màu trắng còn chiếc bên ngoài màu chàm dài hơn một chút; yếm màu đỏ; thắt lưng màu trắng, hồng hay xanh lơ; váy là hai mảnh rời cùng chung một cạp, chỉ dài quá gối có màu chàm; xà cạp màu chàm; xà cạp màu trắng. Ðồ trang trí gồm vòng cổ, vòng tay, hoa tai và dây xà tích bằng bạc.
Nam giới ăn mặc như người Việt: búi tóc vấn khăn hoặc đội khăn xếp, áo dài thâm, quần trắng.
Ở: Họ sống tập trung ở trung du Bắc bộ, trong vùng từ tả ngạn sông Hồng đổ về phía Ðông. Làng xóm của họ tựa như làng người Việt, có luỹ tre bao bọc và giữa các nhà thường có tường hay hàng rào. Ở nhà đất trình tường hay thưng ván.
Phương tiện vận chuyển: Ngoài gánh còn sử dụng xe quệt như là một phương tiện vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển chính. Xe làm bằng tre, gỗ do trâu kéo, dùng để vận chuyển tất cả mọi thứ, từ thóc lúa, củi đuốc cho đến phân bón. Do không có bánh bên xe quệt có thể sử dụng ở nhiều loại địa hình khác nhau.
Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, ruộng đất đã tư hữu hoá và xã hội đã có sự phân hoá giai cấp rõ rệt. Ðịa chủ và phú nông nắm giữ nhiều ruộng đất và bóc lột các tầng lớp nông dân lao động dưới hình thức phát canh thu tô, thuê mướn nhân công và cho vay nặng lãi.
Bên cạnh bộ máy chính quyền, ở các làng còn có người đứng đầy làng do dân bầu ra để quản lý công việc chung.
Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương nhưng có thành vợ thành chồng hay không họ lại tuỳ thuộc vào "số mệnh" và sự quyết định của bố mẹ.
Ðám cưới gồm nhiều nghi lễ. Ðáng chú ý nhất có lễ khai hoa tửu diễn ra tại nhà gái, trước hôm cô dâu về nhà chồng. Người ra lấy một bình rượu và một cái đĩa, trên đĩa lót hai miếng giấy cắt hoa, miếng trắng để dưới, miếng đỏ để trên, đặt lên trên đĩa hai quả trứng luộc có xâu chỉ đỏ và buộc ở mỗi bên trứng hai đồng xu. Sau khi cúng thì bóc trứng lấy lòng đỏ hoà với rượu để mọi người uống mừng hạnh phúc của cô dâu, chú rể.
Ma chay: Khi hạ huyệt, con cái phải từ phía chân quan tài bò một vòng quanh miệng huyệt. Con trai bò từ trái sang phải còn con gái bò từ phải sang trái, vừa bò vừa xô đất lấp huyệt. Lúc đứng dậy, mỗi người vốc một nắm đất và chạy thật nhanh về nhà bỏ vào chuồng trâu, chuồng lợn... với ý nghĩa cho gia súc sinh sôi, nảy nở. Tiếp đó chạy vào nhà và ngồi xuống thúng thóc với quan niệm ai dính nhiều thóc là may mắn. Cuối cùng, mỗi người tự xé lấy một miếng thịt gà luộc để ăn, ai đến trước nhất được mào gà, tiếp theo được đầu, cổ, cánh... Nhà mồ có mái bằng, lợp lá rừng. Khi cải táng, xương được xếp vào tiểu hoặc chum theo tư thế ngồi và nếu chưa chọn được ngày tốt thì chôn tạm ở chân đồi hay bờ ruộng.
Nhà mới: Mỗi khi có ai làm nhà thì mọi người trong họ, trong làng tự đến giúp đỡ, chủ nhân không cần phải mời giúp. Trong lễ lên nhà mới chủ nhà mời người cao tuổi trong họ đem lửa, bình vôi, ít hạt giống vào nhà.
Thờ cúng: Trên bàn thờ thường đặt ba bát hương thờ tổ tiên, pháp sư và táo quân. Nếu chủ nhà chưa được cấp sắc thì chỉ có hai bát hương. Những người mới chết chưa kịp làm ma cũng đặt bát hương lên bàn thờ nhưng để thấp hơn. Ngoài ra, người Sán Dìu còn thờ thổ thần ở miếu thờ thành hoàng ở đình.
Lễ tết: Có những ngày tết như nhiều dân tộc ở trong vùng. Riêng tết Ðông chí còn mang thêm ý nghĩa cầu mong có con đàn, cháu đống. Những người đã lấy nhau lâu mà vẫn chưa có con thì sau khi ăn tết xong người vợ về nhà bố mẹ đẻ ở. Người chồng cho ông mối đến hỏi và sau đó tổ chức cưới lại như là cưới vợ mới.
Lịch: Người Sán Dìu theo âm lịch.
Học: Trước kia, thanh niên thường học chữ Hán để làm thầy cúng nhưng hiện nay còn rất ít người biết chữ Hán.
Văn nghệ: Giống như ở nhiều dân tộc khác, người Sán Dìu cũng có hát giao duyên nam nữ mà họ gọi là soọng cô, thường được hát về đêm. Có những cuộc hát kéo dài suốt nhiều đêm.
Theo cema.gov.vn