Các xã vùng núi Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa) từng có thời gian dài nằm trong diện nghèo nhất cả nước. Nhưng hiện nay, vùng đất này đang “thay da đổi thịt” nhờ lựa chọn đúng cây trồng “hái ra tiền” - sầu riêng.

Những câu chuyện về sự vươn lên từ đói nghèo, vượt qua gian khó, ý chí thoát nghèo của người dân, cùng sự dẫn lối từ các chính sách của Nhà nước, gắn liền với những năm tháng gắn bó với cây sầu riêng đã lan tỏa niềm vui không chỉ cho người trồng mà cả những người yêu thích hương vị độc đáo của loại quả này.
Cây đổi đời cho người Raglai
Khánh Sơn là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó người Raglai chiếm hơn 70% dân số, với trên 28.400 người. Trước đây, đời sống của bà con còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo luôn ở mức cao so với mặt bằng chung của tỉnh. Những năm gần đây, được Đảng và Nhà nước quan tâm, dành nhiều nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, diện mạo Khánh Sơn đã đổi thay rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm dần qua từng năm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Bên cạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thực hiện các giải pháp giảm nghèo bền vững, công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát để người dân an cư cũng được các cấp ủy đảng và hệ thống chính trị khẩn trương triển khai hiệu quả.
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, mục tiêu đến năm 2025 số hộ nghèo sẽ giảm một nửa so với năm đầu nhiệm kỳ (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021 - 2025). Riêng tại hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh, tỷ lệ hộ nghèo phấn đấu giảm 4 - 5% mỗi năm.

Chị Mấu Thị Quỳnh ở xã Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa, thu hoạch được 40 tấn quả sầu riêng, mang lại nguồn thu lên đến 300 triệu đồng mỗi năm.
Cuộc sống nghèo khó trong nhiều năm của gia đình chị Mấu Thị Quỳnh ở xã Khánh Sơn tưởng chừng không có lối thoát. Chị chia sẻ: Trước đây, cuộc sống gia đình chị vô cùng thiếu thốn, trồng cà phê xen kẽ các loại cây khác nhưng thu nhập không ổn định, không đủ trang trải chi phí sinh hoạt hằng ngày. Bước ngoặt đến khi cán bộ địa phương vận động chuyển đổi sang trồng sầu riêng; hỗ trợ cây giống, trang thiết bị và hướng dẫn kỹ thuật, gia đình chị đã kiên trì áp dụng. “Sầu riêng rất hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở Khánh Sơn” - chị Quỳnh khẳng định.
Thành quả ngọt ngào đã đến, hiện tại gia đình chị Quỳnh có khoảng 87 cây sầu riêng trên diện tích 3.000 m2. Năm trước, gia đình chị thu hoạch được 40 tấn quả sầu riêng, mang lại nguồn thu lên đến 300 triệu đồng. Chị Quỳnh phấn khởi chia sẻ: “Cuộc sống giờ đã ổn định hơn nhiều, không còn lo cái ăn từng bữa. Gia đình tôi đã chính thức thoát nghèo”.
Tương tự, gia đình chị Cao Thị Tâm ở thôn Liên Hòa, xã Khánh Sơn cũng là một trong những hộ dân Raglai được hỗ trợ chuyển đổi sang trồng sầu riêng. Vụ mùa năm nay, vườn cây của chị cho lứa quả đầu tiên, đạt hơn một tấn, thu về khoảng 80 triệu đồng. Chia sẻ niềm vui khi cuộc sống dần khấm khá, chị Tâm cho biết: Năm nay, gia đình chị sẽ tìm hiểu thêm nhiều kỹ thuật canh tác để tiếp tục đầu tư, mở rộng diện tích trồng sầu riêng.
Những câu chuyện thoát nghèo như của chị Mấu Thị Quỳnh hay chị Cao Thị Tâm không còn là cá biệt, mà đang phổ biến tại các xã vùng núi Khánh Sơn. Đây là minh chứng rõ nét cho ý chí vươn lên của người dân cùng sự đồng hành sát sao của đội ngũ cán bộ cơ sở trong công tác vận động chuyển đổi cây trồng, phát triển nông nghiệp – nông thôn.
Chỉ tính riêng tại thôn Liên Hòa, xã Khánh Sơn, diện tích trồng sầu riêng đã phát triển lên hơn 1.000 ha. Thôn có 391 hộ với 1.297 nhân khẩu, nhờ trồng sầu riêng, đến nay chỉ còn 8 hộ nghèo và 61 hộ cận nghèo.
Mặc dù đã gặt hái nhiều thành công, nhưng người nông dân Khánh Sơn vẫn đối mặt với không ít thách thức, đặc biệt là sự biến động giá cả nông sản sau mỗi vụ thu hoạch. Chị Phạm Thị Huyên, Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Liên Hòa cho biết: Năm nay tuy được mùa nhưng giá bán thấp hơn so với những năm trước. Dù vậy, vẫn có thương lái đến thu mua, bà con vẫn có thu nhập tương đối ổn định. Điều quan trọng nhất là cần có đầu ra bền vững, giá cả tốt. Từ đó, người dân hoàn toàn có thể làm chủ cuộc sống và trở nên khá giả nhờ nghề trồng sầu riêng.
Đồng hành cùng nông dân

Gia đình chị Cao Thị Tâm, trú tại thôn Liên Hòa, xã Khánh Sơn, là một trong những hộ dân Raglai được hỗ trợ chuyển đổi sang trồng cây sầu riêng.
Tại các xã miền núi, vai trò của đội ngũ cán bộ kỹ thuật trở nên đặc biệt quan trọng. Chị Phạm Thị Huyên, Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn Liên Hòa, cho biết: "Chúng tôi thường xuyên chỉ đạo cán bộ kỹ thuật mở các lớp tập huấn, hướng dẫn bà con chăm sóc sầu riêng để đạt năng suất cao, mang lại thu nhập tốt, nhất là cho các hộ nghèo và cận nghèo.” Sự đồng hành này đã giúp người dân thêm vững tin, mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nỗ lực vươn lên của bà con, cộng với chính sách hỗ trợ kịp thời, đã mang lại những kết quả giảm nghèo rõ nét cho Khánh Sơn. Ông Nguyễn Quốc Đông, Chủ tịch UBND xã Khánh Sơn khẳng định: "Bộ mặt của xã Khánh Sơn đã thay đổi rõ rệt. Giao thông thuận tiện đã góp phần nâng cao giá trị nông sản, mang lại thu nhập tốt hơn cho bà con. Nhờ sự chủ động xây dựng chương trình giảm nghèo của địa phương cùng với sự hỗ trợ kịp thời từ tỉnh Khánh Hòa, nhiều mục tiêu quan trọng đã được hiện thực hóa, mang lại đời sống tốt đẹp hơn cho bà con".
Một trong những thành tựu nổi bật là việc cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông. Các tuyến đường kết nối đến các vùng sản xuất đã được nâng cấp, giúp bà con thuận tiện hơn trong việc vận chuyển nông sản, hàng hóa, từ đó nâng cao giá trị sản phẩm.
Chủ tịch xã Khánh Sơn Nguyễn Quốc Đông nhấn mạnh: "Giai đoạn 2020-2025, tỷ lệ hộ nghèo trên toàn xã đã giảm bình quân 7% mỗi năm. Đến cuối năm 2024, tỷ lệ này chỉ còn 13,1%, đây là mức giảm đáng kể nhất trong công tác giảm nghèo ở nông thôn mới, góp phần vào thành công chung của tỉnh Khánh Hòa. Đặc biệt, công tác giảm nghèo không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ vốn mà còn chú trọng nâng cao nhận thức cho bà con về vươn lên thoát nghèo, không còn trông chờ, ỷ lại vào các nguồn vốn hỗ trợ. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn làm giàu, đạt được những kết quả đáng mừng.
Trong vòng 20 năm qua, vùng núi Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa đã thử nghiệm và đưa vào trồng, phát triển được nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, trong đó có đến hơn 3.640 ha cây ăn quả, đặc biệt là cây sầu riêng chiếm đến hơn 70% diện tích. Hiện nay đã có đến 1.700 ha cho thu hoạch trong tổng số hơn 2.600 ha trồng loại cây này, sản lượng trên dưới 18.000 tấn/năm, mang lại trị giá khoảng 1.000 tỷ đồng cho người dân trồng sầu riêng tại các xã trong vùng.
Có thể nói, sầu riêng không chỉ là cây “thoát nghèo - làm giàu” của bà con Khánh Sơn mà còn mở ra một hướng đi mới cho kinh tế vùng núi. Từ những vườn cây trĩu quả, người dân thêm niềm tin vào sự đổi thay trên quê hương mình. Hành trình xây dựng thương hiệu sầu riêng Khánh Sơn gắn với khát vọng phát triển xanh, bền vững sẽ là động lực để địa phương tiếp tục vươn lên, khẳng định vị thế trên bản đồ nông sản chất lượng cao của cả nước./.
Nhóm địa phương: Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...
Dân số: 122.245 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác.
Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.
Hoạt động sản xuất: Nghề làm rẫy luôn chi phối các hoạt động kinh tế khác. Trên rẫy đồng bào trỉa cả lúa, bắp, đậu, bầu bí và cây ăn trái. Rẫy được phát bằng chà gạc, rựa hoặc rìu. Cư dân sử dụng đoạn gỗ ngắn, nhọn đầu để trỉa giống, làm cỏ rẫy bằng chiếc cào nhỏ và thu hoạch lúa bằng tay... Rèn và đan lát là hai nghề thủ công khá phát triển... Chăn nuôi phổ biến với các đàn gia súc, gia cầm gồm trâu, lợn, gà, vịt... Ngày nay cư dân đã biết trồng cấy lúa nước.
Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Ra Glai cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.
Cồng chiêng là nhạc cụ rất phổ biến ở Tây Nguyên và các tỉnh miền Trung. Nam nữ, người già, người trẻ Ra Glai đều say sưa chơi và thưởng thức tiếng cồng chiêng trong các đêm hội.
Ðàn môi là một loại nhạc cụ truyền thống của người Ra Glai, các bộ phận của đàn được làm bằng các chất liệu khác nhau: nhôm, lá đồng, tre, dây đàn, sáp ong. Khi thổi tay phải giữ bệ đàn, thân đàn cho vào môi ngậm, ngón tay trỏ của tay trái gầy vào đầu nốt nhạc.
Ăn: Sáng và chiều là hai bữa ăn chính. Cơm trưa thường được mang lên rẫy. Canh nấu lẫn thịt, cá và các loại rau là món ăn được ưa thích. Ðồ uống gồm nước lã đựng trong vỏ bầu khô và rượu cần. Thuốc lá tự thái, quấn trong vỏ bắp ngô được dùng phổ biến trong các gia đình.
Mặc: Rất khó tìm thấy y phục truyền thống của người Ra Glai. Ngày nay, đàn ông thì mặc quần âu và áo sơ mi, đàn bà mặc váy hoặc quần với áo bà ba. Thời xa xưa, đàn ông nơi đây ở trần, đóng một loại khố đơn giản, không có hoa văn trang trí. Những ngày lễ hội truyền thống, phụ nữ mặc áo dài, phía trên được ghép thành những ô vuông màu đỏ trắng xen kẽ nhau.
Ở: Người Ra Glai ở trong vùng núi và thung lũng có độ cao từ 500-1000m, tập trung ở các huyện Ninh Sơn (Ninh Thuận), Bắc Bình (Bình Thuận) và một số nơi thuộc Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Ðồng. Trước đây, họ ở nhà sàn. Hiện nay, nhà đất đã khá phổ biến. Những căn nhà thường có dạng hình vuông, chỉ rộng chừng 12-14m2. Một vài nhà lớn hơn, có hình chữ nhật. Kỹ thuật lắp ghép rất đơn sơ, chủ yếu sử dụng chạc cây và dây buộc. Mái lợp bằng tranh hoặc lá mây. Vách được che bằng phên đan hay sử dụng đất trát.
Phương tiện vận chuyển: Như các dân tộc khác trên Trường Sơn - Tây Nguyên, phương tiện vận chuyển của người Ra Glai là gùi. Gùi được đan đơn giản, không hoa văn trang trí. Gùi có các kích cỡ khác nhau, phù hợp với đôi vai của từng người và từng công việc cụ thể.
Quan hệ xã hội: Mỗi làng là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Trong những trường hợp cần thiết "Hội đồng già làng" hình thành dựa trên sự thừa nhận của mọi thành viên trong làng. Mỗi đơn vị cư trú đều có một người đứng đầu, là người có công tìm đất lập làng. Khi nhiều làng cùng sinh tụ trên một vùng rừng núi thì ở đó có một người là chủ núi bên cạnh các chủ làng... Tầng lớp thày cúng cũng đã hình thành. Tuy nhiên, mọi quan hệ xã hội của người Ra Glai trước kia và hiện nay đều chịu sự chi phối của chế gia đình mẫu hệ.
Cưới xin: Tình yêu của trai gái trước hôn nhân được người Ra Glai tôn trọng. Việc cưới xin phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục khá phức tạp. Lễ cưới được tiến hành cả ở hai bên gia đình: nhà gái trước, nhà trai sau. Quan trọng nhất trong lễ cưới là nghi thức trải chiếu cho cô dâu, chú rể. Cô dâu, chú rể ngồi trên chiếu này để hai ông cậu của hai bên cúng trình với tổ tiên, thần linh về việc cưới xin. Cũng chính trên chiếc chiếu này, họ ăn chung bữa cơm đầu tiên trước sự chứng kiến của hai họ. Sau lễ cưới, việc cư trú bên vợ đang còn phổ biến.
Sinh đẻ: Trước và sau khi sinh nở, phụ nữ Ra Glai kiêng một số thức ăn, không nói tên một vài loài thú và tránh làm những công việc nặng nhọc. Họ được chồng dựng cho một căn nhà nhỏ ở bìa rừng để sinh đẻ. Họ đẻ ngồi và tự mình giải quyết các công việc khi sinh. Một số nơi, sản phụ được sự giúp đỡ của một người đàn bà giàu kinh nghiệm. Khi sinh xong, người mẹ bế con về nhà và khoảng 7 ngày sau họ tiếp tục làm các công việc như bình thường. Ngày nay, phụ nữ nơi đây đã đến sinh đẻ ở trạm xá, với sự giúp đỡ của các nữ hộ sinh.
Ma chay: Người chết được quấn trong vải hoặc quần áo cũ rồi đặt trong quan tài bằng thân cây rỗng hay quấn bằng vỏ cây là tuỳ theo mức giàu nghèo của gia đình. Người chết được chôn trên rẫy hoặc trong rừng, đầu hướng về phía tây. Khi có đủ điều kiện về kinh tế người ta làm lễ bỏ mả, dựng nhà mồ cho người chết. Quanh nhà mồ được trồng các loại cây như: chuối, mía, dứa và khoai môn. Trên đỉnh nhà mồ còn có hình chiếc thuyền và những chú chim bông lau. Vật dụng thuộc về người chết được phá hỏng, đặt quanh nhà và trong nhà mồ.
Thờ cúng: Người Ra Glai cho rằng có một thế giới thần linh bao quanh và vượt ra ngoài hiểu biết của họ. Các vị thần đều có thể bớt gây tai họa hay trợ giúp họ nếu được cúng tế và thỉnh cầu. Vong linh người chết là lực lượng siêu nhiên gây cho họ nhiều sợ hãi nhất. Cư dân còn tin vào sự linh hoá của các loại thú vật... Vì vậy, hàng năm thường xuyên diễn ra các nghi lễ cúng bái với việc hiến tế để mong thần linh giúp đỡ. Việc cúng tế này đã có sự tham gia của lớp thầy cúng, họ đang dần tách khỏi lao động và coi cúng bái như một nghề nghiệp chính thức.
Lễ tết: Theo chu kỳ sản xuất, người Ra Glai thường tiến hành các nghi lễ khi chọn rẫy, phát và đốt rẫy, gieo trỉa và thu hoạch. Theo chu kỳ đời người, đó là các lễ tiết khi sinh nở, lúc ốm đau, rồi cưới xin, ma chay... Những nghi lễ lớn trong năm thường tập trung vào khoảng tháng 1-2 dương lịch, khi đã thu hoạch rẫy, gồm cả lễ mừng thu hoạch, cưới xin và lễ bỏ mả. Ðây chính là những ngày tết của cư dân vùng này.
Văn nghệ: Ðó là những truyện cổ tích, thần thoại, những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, ca dao... thể hiện tâm tư, tình cảm của cư dân. Ðó cúng còn là bộ nhạc cụ khá phong phú của người Ra Glai. Bộ chiêng đồng đầy đủ với 12 chiếc. Tuy nhiên, có thể sử dụng 4, 6, 7 hay 9 chiếc. Khèn bầu, khèn môi, đàn ống tre khá phổ biến. Người Ra Glai cũng là cư dân biết sử dụng những thanh đá kêu, ghép thành bộ thường gọi là đàn đá, đánh thay chiêng, khá độc đáo và lý thú.
Theo cema.gov.vn
