Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Mặc dù lươn không bùn dễ nuôi, nhưng tận dụng được không gian hẹp, thị trường tiêu thụ rộng mở, giá bán tương đối ổn định, nên vài năm gần đây, nhiều hộ ở thành phố Cần Thơ lựa chọn mô hình nuôi lươn không bùn để phát triển kinh tế gia đình.

luon-khong-bun-17825-10.jpg
Ông Trần Trung Tri, xã Tân Hòa gắn bó với nghề nuôi lươn không bùn hơn 5 năm. Mỗi năm, ông Tri nuôi khoảng 25.000 - 30.000 con lươn.

Ông Trần Trung Tri ở xã Tân Hòa đã "mạo hiểm" nuôi thử nghiệm. Lúc mới nuôi, ông Tri mua bạt về quây thành hồ để nuôi 3.000 con lươn giống đầu tiên. Lươn được nuôi trong bể bạt với dây nhựa thả làm chỗ cho lươn trú ngụ.

Thời điểm đó, tại địa phương chưa có hộ nuôi lươn không bùn để chia sẻ kinh nghiệm nên ông Tri tự học hỏi thông qua các kênh truyền thông, trang mạng xã hội về cách nuôi rồi áp dụng vào thực tế. Lươn giống được ông Tri mua tại trại giống, đạt trọng lượng 700 con/kg. Sau 9 tháng nuôi, ông Tri xuất bán gần 1 tấn lươn thịt, với giá bán 160.000 đồng/kg, trừ chi phí, lãi khoảng 70 triệu đồng.

Từ thành công ban đầu, ông Tri mạnh dạn mở rộng diện tích nuôi hơn 40 m2, xây bể bê tông kiên cố, mỗi lứa nuôi khoảng từ 25.000 - 30.000 con lươn. Ông Tri tính toán, tùy vào giá cả thị trường, nuôi 10.000 con lươn, lợi nhuận dao động khoảng 70 đến trên 100 triệu đồng.

"Với 25.000 con lươn đang nuôi trong bể, dự kiến xuất bán vào tháng 11, nếu giá trên 90.000 đồng/kg, trừ chi phí mỗi ký khoảng 40.000 đồng, tôi sẽ lãi khoảng 300 triệu đồng. Một lời một", ông Tri bộc bạch.

Sau 5 năm gắn bó với nghề, ông Tri nhận thấy, so với các mô hình chăn nuôi khác, nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế khá tốt, quy trình chăm sóc dễ dàng lại cho sản phẩm sạch. Đặc biệt, giá lươn trên thị trường tương đối ổn định, đầu ra luôn "hút hàng".

Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi lươn, theo ông Tri, mặc dù lươn nuôi cũng đối diện với một số bệnh hay gặp về đường ruột nhưng chỉ cần người nuôi kĩ, quan trọng nhất là khâu thay và xử lý nước cho sạch sẽ thì nuôi lươn thành công. Ngoài ra, khâu cho ăn phải đảm bảo liều lượng, chừng mực, tăng dần qua từng tháng. Khi lươn được 5 tháng tuổi trở lên, mỗi ngày 1.000 con ăn khoảng 1kg thức ăn.

luon-khong-bun-17825-11.jpg
Lươn nuôi không bùn trong bể xi măng hay bể bạt chỉ cần thêm ít dây nhựa tạo chỗ cho lươn trú ngụ.

Với những ưu điểm đó, 5 năm qua, mô hình nuôi lươn không bùn lan rộng ra nhiều gia đình ở xã Tân Hòa. Trước đây, gia đình chị Đặng Thị Thu Phượng làm nghề buôn bán nhỏ và làm vườn. Nhận thấy, tiềm năng từ lươn không bùn, chị Phượng quyết định vay thêm vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để xây bể, khoan giếng nước nuôi lươn. Giờ đây, gia đình chị Phượng là một trong những hộ nuôi lươn không bùn có quy mô lớn ở xã Tân Hòa với hơn 200 m2 diện tích nuôi khoảng 100.000 con lươn (lươn bột, lươn giống, lươn thương phẩm) mỗi năm.

Theo chị Phượng, nuôi lươn không bùn vừa có thể quản lý nhà cửa, buôn bán tạp hóa, vừa tận dụng thời gian nhàn rỗi để chăm sóc lươn. "Nuôi lươn khá dễ, nhưng việc chăm sóc, cho ăn, thay nước phải đúng thời gian. Một ngày cho lươn ăn 2 lần, thay nước 3 lần, không được bỏ lần nào. Nếu không, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước, gây nguy hiểm cho sự phát triển của lươn", chị Phượng bật mí.

Trong khi đó, anh Trương Văn Út (chồng chị Phượng) cũng nhận định khâu chọn giống cũng đóng vai trò quan trọng trong thành công của quá trình nuôi lươn. Theo anh Út, nếu chọn được nơi mua con giống uy tín, chất lượng thì tỷ lệ hao hụt ít, lươn khỏe, dễ nuôi, ít bệnh; nếu mua lươn giống "trôi nổi", không rõ ràng thì dễ dẫn đến nguy cơ lỗ vốn.

Hiện tại, nhu cầu thị trường khá đa dạng, lươn đạt trọng lượng từ 50 gram/con là có thể tiêu thụ. Tuy nhiên, gia đình chị Phượng ưu tiên xuất bán lươn loại lớn, khoảng 200 - 300 gram/con để gia tăng thu nhập. Tùy vào giá lươn ngoài thị trường mà lợi nhuận sẽ dao động từ 30.000 - 60.000 đồng/kg.

luon-khong-bun-17825-13.jpg
Anh Trương Văn Út, xã Tân Hòa nuôi khoảng 100.000 con lươn mỗi năm, thu lãi hàng trăm triệu đồng.

Trên địa bàn xã Tân Hòa hiện có khoảng 35 hộ nuôi lươn theo hình thức không bùn với số lượng trên 500.000 con. Xã Tân Hòa đã thành lập 1 hợp tác xã và 1 tổ hợp tác nuôi lươn không bùn. Ông Nguyễn Vĩnh Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hòa cho biết, lợi thế của nuôi lươn không bùn giúp kiểm soát nguồn nước, dịch bệnh đảm bảo hơn so với hình thức nuôi truyền thống trên bể đất. Mô hình nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế khá tốt, giúp người nuôi tận dụng được thời gian nhàn rỗi, tận dụng không gian hẹp, tăng thu nhập.

Là đơn vị đồng hành với nhiều người vay vốn nuôi lươn không bùn, hiện Phòng Giao dịch Ngân hành Chính sách Xã hội Châu Thành A đang hỗ trợ 135 khách hàng vay vốn nuôi lươn, với tổng dư nợ trên 8 tỷ đồng. Ông Nguyễn Văn Vũ, Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Châu Thành A cho biết, cách đây 3 năm, thực hiện công tác phối hợp giữa Ngân hàng Chính sách Xã hội và tỉnh Hậu Giang (cũ), Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Châu Thành A đã thành lập những tổ hợp tác (nằm trong tổ tiết kiệm và vay vốn) bao gồm nhiều thành phần như hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, gia đình chính sách,… Mỗi tổ hợp tác sẽ có một mô hình làm ăn, phát triển kinh tế, trong đó, có mô hình nuôi lươn không bùn.

Thời gian qua, thành viên tổ hợp tác ngày càng nhiều lên, quy mô nuôi lươn được mở rộng. Nhiều hộ vay vốn Ngân hàng Chính sách Xã hội để nuôi lươn mang lại hiệu quả tốt. Hiện nay, dư nợ vay nuôi lươn không bùn khá cao so với 3 năm trước và đặc biệt không có nợ xấu. Phòng giao dịch Ngân hành Chính sách Xã hội Châu Thành A sẽ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương để nhân rộng các mô hình nuôi lươn không bùn, đồng thời xem xét tăng mức vay cho người dân tiếp cận mở rộng quy mô sản xuất.

Nghề nuôi lươn ở Cần Thơ đã hình thành từ lâu nhưng chủ yếu là hình thức có bùn và sử dụng con giống bắt từ tự nhiên. Khoảng 10 năm trở lại đây, nuôi lươn không bùn xuất hiện ở Cần Thơ và thịnh hành nhất bắt đầu từ năm 2017 đến nay. Nuôi lươn không bùn hiện đã được nhân rộng khắp các địa bàn của thành phố với khoảng 1.900 hộ nuôi (tổng diện tích trên 18,4 ha), chủ yếu là quy mô nông hộ (diện tích mặt nước nuôi trung bình dưới 200 m2/hộ). Hình thức nuôi lươn không bùn với mật độ nuôi dao động từ 250 - 500 con/m2; lươn được nuôi trong bể lót bạt, xi măng không bùn, sử dụng con giống nhân tạo, thức ăn viên công nghiệp.

luon-khong-bun-17825-12.jpg
Lươn không bùn ở Cần Thơ được nuôi chủ yếu tiêu thụ nội địa, một phần phục vụ cho xuất khẩu.

Theo bà Quách Thị Thanh Bình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ, thị trường tiêu thụ hiện nay tương đối ổn định và giá bán phần lớn cao hơn chi phí đầu tư, người nuôi có lợi nhuận khá. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế cụ thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô nuôi, kỹ thuật nuôi, giá cả thức ăn, con giống và giá bán lươn tại thời điểm thu hoạch.

Phần lớn hộ nuôi hiện nay đều bán thông qua thương lái, đa phần sản lượng lươn phục vụ cho tiêu thụ nội địa. Bên cạnh đó, một phần sản lượng cung cấp cho xuất khẩu sang nhiều thị trường, đặc biệt là các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ,… Tuy nhiên, việc xuất khẩu lươn đòi hỏi quy trình nuôi và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt để đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu nên sản lượng dành cho thị phần này vẫn còn khiêm tốn.

Nhận định lươn không bùn là một trong những sản phẩm chủ lực của ngành hàng thủy sản, góp phần tăng trưởng kinh tế cho khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản), theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Cần Thơ, để phát triển nghề nuôi lươn hiệu quả và bền vững, sở khuyến khích người nuôi thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị và kết nối với thị trường tiêu thụ để đảm bảo đầu ra ổn định và gia tăng giá trị.

"Ngoài cung cấp thông tin, kiến thức, kỹ thuật, vốn và các chính sách hỗ trợ cần thiết để người nuôi có thể tiếp cận và áp dụng các mô hình nuôi lươn hiệu quả, ngành nông nghiệp sẽ củng cố nâng chất các tổ hợp tác, hợp tác xã có kế hoạch sản xuất khả thi, kết nối với các doanh nghiệp cung ứng đầu vào và tiểu thụ đầu ra sản phẩm lươn", bà Bình thông tin./.

Có thể bạn quan tâm

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, trong 2 ngày 13-14/8, xã biên giới Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh tổ chức phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030, với khẩu hiệu hành động “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”. Đại hội có sự tham dự của 170 đại biểu đại diện cho 421 đảng viên của Đảng bộ xã.

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Các xã Hậu Mỹ, Mỹ Thành, Thạnh Phú, Tân Phước 1, Tân Phước 2,… nằm về Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, trong vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây, thiên nhiên khắt nghiệt, vào mùa mưa lũ khoảng tháng 8, tháng 9 hàng năm, nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nhấn chìm nhà cửa, đồng ruộng gây nhiều thiệt hại làm cuộc sống nhân dân cơ cực, khó khăn.

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.