Kinh tế xanh: Mở rộng đối tượng chi trả dịch vụ hệ sinh thái

Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng phần nào đã giúp bộ mặt nông thôn xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang có nhiều thay đổi. Ảnh: Nam Thái - TTXVN
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng phần nào đã giúp bộ mặt nông thôn xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang có nhiều thay đổi. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Loại hình chi trả dịch vụ môi trường rừng đã chứng minh hiệu quả tại nhiều địa phương trong việc nâng cao hiệu quả bảo vệ, phát triển rừng, tạo thu nhập và sinh kế cho nhiều cộng đồng miền núi. Theo các chuyên gia môi trường, cơ chế này cần mở rộng áp dụng với các hệ sinh thái khác nhằm tạo nguồn thu cho việc bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái và các loài hoang dã.

Kinh tế xanh: Mở rộng đối tượng chi trả dịch vụ hệ sinh thái ảnh 1Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng phần nào đã giúp bộ mặt nông thôn xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang có nhiều thay đổi. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Thu hút các nguồn lực bảo vệ môi trường

Ông Đào Xuân Lai, Trưởng Ban Biến đổi khí hậu và Môi trường của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam cho biết, chi trả dịch vụ hệ sinh thái đã được công nhận rộng rãi như một công cụ chính sách thành công để quản lý tài nguyên thiên nhiên ở nhiều nước trên thế giới. Các chương trình này đã được áp dụng cho các dịch vụ hệ sinh thái khác nhau trên phạm vi quốc tế, bao gồm: Bảo tồn đa dạng sinh học, dịch vụ lưu vực sông, hấp thụ carbon và vẻ đẹp cảnh quan. Tổng số tiền chi trả hàng năm của các chương trình Chi trả dịch vụ hệ sinh thái trên toàn thế giới là trên 36 tỷ USD.

Việc đưa ra các sáng kiến thúc đẩy dịch vụ hệ sinh thái sẽ góp phần vào cho công cuộc tái tạo, phục hồi đa dạng sinh học và hệ sinh thái ở Việt Nam; đóng góp thiết thực trong việc thực hiện các mục tiêu đa dạng sinh học mà Việt Nam cam kết trong Khung Đa dạng sinh học Toàn cầu đưa ra tại Hội nghị lần thứ 15 (COP15) các bên của Công ước Đa dạng sinh học.

Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường Nguyễn Đình Thọ cho biết, theo khoản 1 Điều 138 Luật Bảo vệ môi trường 2020, chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên là việc tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng giá trị môi trường, cảnh quan do hệ sinh thái tự nhiên tạo ra để bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.

Theo đó, nguyên tắc chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên được quy định là: Tổ chức, cá nhân sử dụng một hoặc một số dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên phải chi trả tiền dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Việc chi trả tiền dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên được thực hiện bằng hình thức trả tiền trực tiếp hoặc chi trả gián tiếp thông qua ủy thác. Tiền chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên được hạch toán vào giá thành sản phẩm, dịch vụ của bên sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, phải bảo đảm bù đắp chi phí cho hoạt động bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên. Tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên phải sử dụng tiền thu được từ chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên để bảo vệ, duy trì và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.

Các dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên được chi trả bao gồm các dịch vụ: môi trường rừng của hệ sinh thái rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp; hệ sinh thái đất ngập nước phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí, nuôi trồng thủy sản; hệ sinh thái biển phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí, nuôi trồng thủy sản; hệ sinh thái núi đá, hang động, công viên địa chất phục vụ mục đích kinh doanh du lịch, giải trí; hệ sinh thái tự nhiên phục vụ mục đích hấp thụ và lưu trữ carbon

Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định rõ hình thức chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Theo đó, tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền trực tiếp cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên thông qua hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên. Trường hợp không thực hiện theo hình thức trả tiền trực tiếp, tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên trả tiền cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên theo hình thức ủy thác qua quỹ bảo vệ môi trường cấp tỉnh hoặc Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam trong trường hợp địa phương chưa có quỹ bảo vệ môi trường cấp tỉnh.

Cần cơ chế tài chính mang tính toàn diện

Theo Tiến sỹ Trần Thị Thu Hà, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), mở rộng các cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái có thể thu hút và huy động hiệu quả các nguồn lực. Trong đó, loại hình chi trả dịch vụ hệ sinh thái ở Việt Nam bước đầu đã được áp dụng thành công đối với hệ sinh thái rừng. Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng đã hình thành việc chi trả dịch vụ môi trường rừng giúp đóng góp vào nguồn lực phi ngân sách cho ngành Lâm nghiệp, gia tăng nguồn thu cho rừng, giảm nhẹ gánh nặng lên ngân sách Nhà nước và nâng cao hiệu quả bảo vệ cũng như phát triển rừng, tạo thu nhập và sinh kế cho nhiều cộng đồng miền núi. Vì vậy, trong việc bảo tồn hệ sinh thái, đa dạng sinh học, cần mở rộng hình thức chi trả này cho các dịch hệ sinh thái khác để tạo nguồn thu cho việc bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái và các loài hoang dã nhằm bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái, phục hồi các loài nguy cấp mà hiện nay ngân sách vẫn chưa thể đầu tư được.

Theo Tiến sỹ Trần Thị Thu Hà, tại Việt Nam, những bài học kinh nghiệm từ chi trả dịch vụ môi trường rừng là cơ sở để nhân rộng cơ chế tương tự cho các hệ sinh thái khác, trong đó có môi trường biển và đất ngập nước. Việt Nam đã triển khai các sáng kiến giống như cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái cho các hệ sinh thái biển và đất ngập nước, tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có loại hình chi trả mang tính toàn diện cho dịch vụ của các hệ sinh thái này. Nước ta hiện áp dụng một số chi trả dịch vụ hệ sinh thái trong thực tiễn như: Thu phí dịch vụ tham quan đối với các khu vực biển, vùng đất ngập nước được bảo vệ, mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, hay phát triển các phương pháp nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường ở một số vùng ven biển với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các ngành liên quan... Trong đó, nhiều sáng kiến không duy trì được lâu do cơ sở pháp lý chưa rõ ràng.

Mới đây, nhóm nghiên cứu Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường và UNDP đã xây dựng đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp tỉnh và cấp cơ sở; chuẩn bị đề án thí điểm cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ, lưu trữ carbon đối với hệ sinh thái biển, hệ sinh thái đất ngập nước. Nhóm nghiên cứu đưa ra các khuyến nghị, bao gồm: Xây dựng tiêu chí, phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái biển, đất ngập nước quốc gia; hỗ trợ đánh giá và đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ở cấp cơ sở; lập bản đồ hiện trạng dịch vụ hệ sinh thái biển, đất ngập nước ở Việt Nam; xây dựng hướng dẫn cho cấp tỉnh và cấp cơ sở đề án cơ chế chi trả; có thí điểm hoạt động chi trả và hoàn thiện chính sách, quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, trọng tâm là hệ sinh thái biển và đất ngập nước.

Các chuyên gia môi trường cho rằng, trong bối cảnh ngân sách Nhà nước hiện nay vẫn chưa đủ đáp ứng cho bảo tồn đa dạng sinh học trong việc thực hiện các công tác quản lý, nghiên cứu, bảo tồn... Do vậy, theo các chuyên gia, cần có một cơ chế tài chính mới, chính sách mới để thu hút được các nguồn lực bổ sung cho những thiếu hụt đó về lâu dài và bền vững hơn bằng cách xây dựng một cơ chế khuyến khích, huy động sự tham gia của người dân Việt Nam và khối doanh nghiệp đầu tư tài chính cho bảo tồn đa dạng sinh học hay các cơ chế mới trong hình thức chi trả dịch vụ hệ sinh thái ngoài hệ sinh thái rừng, chính sách khuyến khích, đóng góp phần phụ trội thuế của cá nhân và doanh nghiệp cho đa dạng sinh học.

Bên cạnh đó, để thu hút đóng góp, hỗ trợ từ các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học, các chuyên gia đề nghị cần có các cơ chế chứng chỉ, tín chỉ đa dạng sinh học, tiếp cận thị trường tín chỉ carbon, cơ chế hoán đổi nợ cho bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, trái phiếu xanh, tín dụng xanh, thiết lập các quỹ về đa dạng sinh học như quỹ bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái, quỹ cứu trợ loài, mở rộng các cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái để có thể thu hút, huy động hiệu quả các nguồn lực.

Hoàng Nam

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Xây dựng sinh kế bền vững từ nghề nuôi trâu bò vỗ béo

Xây dựng sinh kế bền vững từ nghề nuôi trâu bò vỗ béo

Sau khi hợp nhất ba xã Xuân La, An Thắng và Nghiên Loan, xã Nghiên Loan (tỉnh Thái Nguyên) được thành lập với tổng diện tích tự nhiên rộng lớn hơn 130km2 và dân số hơn 11.000 người. Việc hợp nhất này không chỉ mở ra không gian phát triển mới mà còn giúp Nghiên Loan phát huy mạnh mẽ tiềm năng trong lĩnh vực chăn nuôi gia súc.

Người phụ nữ khởi xướng phát triển các loại dược liệu cho quê hương

Người phụ nữ khởi xướng phát triển các loại dược liệu cho quê hương

Những năm trở lại đây, các sản phẩm dầu gió, tinh dầu bạc hà, tràm, quế, cao xoa thảo dược... của Hợp tác xã Nông ngư nghiệp Mỹ An do chị Nguyễn Thụy Thúy Vy (sinh năm 1992, xã Phù Mỹ Đông, tỉnh Gia Lai), khởi xướng sáng lập được người dân trong và ngoài xã coi như món quà biếu, tặng bạn bè, người thân.

Hành trình bền bỉ gieo chữ nơi biên giới Dào San

Hành trình bền bỉ gieo chữ nơi biên giới Dào San

Trong tiết trời se lạnh của vùng cao Dào San (tỉnh Lai Châu), tiếng đọc bài của học trò vang đều trong lớp học nhỏ. Cô Trần Thị Thao, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Dào San nhẹ nhàng chỉnh lại chiếc máy tính giúp học trò vùng biên biết đến Tin học.

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Với hơn 500 hợp tác xã và hàng nghìn tổ hợp tác đang hoạt động, khu vực kinh tế tập thể ở Vĩnh Long đang chuyển mình mạnh mẽ, trở thành điểm tựa vững chắc cho nông nghiệp bền vững. Từ những mô hình sản xuất hữu cơ, trồng xen đến liên kết “4 nhà”, kinh tế hợp tác không chỉ giúp nông dân nâng cao thu nhập mà còn tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh - hiện đại, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

Sau khi hợp nhất địa giới, Đồng Tháp không chỉ mở rộng về quy mô diện tích, dân số mà còn gia tăng đáng kể lợi thế về phát triển nông nghiệp, nhất là hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản gắn với chế biến và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu.

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Ngày 10/10, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai tổ chức Chương trình triển khai hoạt động truyền thông, hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ tại tỉnh Lào Cai.

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình chăn nuôi dúi của anh Đinh Tiến Hoàng, Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ tổng hợp Hoàng Phát - HB, xóm Cang 3, phường Tân Hòa, tỉnh Phú Thọ, đang đem lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững, cho thu lời hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và biến động thị trường ngày càng phức tạp, nhiều mô hình liên kết hợp tác trong sản xuất – tiêu thụ tại tỉnh Vĩnh Long chứng minh tính hiệu quả bền vững.

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Năm 2025, thành phố Cần Thơ có 3 nông dân được Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là nông dân xuất sắc Việt Nam, trong đó có ông Trần Hồng Quan, ấp Trường Hiệp, xã Trường Long Tây. Với mô hình phát triển kinh tế - nuôi ba ba kết hợp trồng sầu riêng và lúa, nông dân Trần Hồng Quan thu lợi nhuận tiền tỷ mỗi năm.

Tạo cơ chế khuyến khích nông nghiệp hữu cơ

Tạo cơ chế khuyến khích nông nghiệp hữu cơ

Tỉnh Đồng Nai khuyến khích các tổ chức và cá nhân sản xuất, chế biến, kinh doanh nông, lâm, thủy sản thực hiện phát triển sản xuất nông nghiệp hữu cơ nhằm tạo ra sản phẩm an toàn và chất lượng cao, nâng cao giá trị sản phẩm cao gấp 1,5 - 2,0 lần so với sản phẩm nông nghiệp thông thường; đảm bảo an toàn cho người sản xuất, bảo vệ sự đa dạng hệ sinh thái và môi trường; gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững.

Nâng cao hiệu quả cánh đồng lúa 'thông minh'

Nâng cao hiệu quả cánh đồng lúa 'thông minh'

Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với chuyển đổi số, xã Tân Xuân, tỉnh Vĩnh Long tổ chức sản xuất mô hình cánh đồng "thông minh", áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Qua đó, làm thay đổi tư duy, tập quán sản xuất lúa truyền thống của người dân, mang lại hiệu quả tích cực cho bà con, nhất là triển khai chuyển đổi số trong nông nghiệp.

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Thành công của nhà nông dân tộc thiểu số với mô hình nông nghiệp công nghệ cao

Tại tỉnh Đồng Nai, nhà nông là hộ dân tộc thiểu số đã mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đang mang lại hiệu quả vượt trội. Với sự hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước và vai trò cầu nối của Hội Nông dân, nhiều nông dân đã mạnh dạn thay đổi tư duy, từ bỏ lối canh tác truyền thống để tiếp cận các mô hình tiên tiến, mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp bền vững.

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Ông 'vua cam' nơi vùng đất đồi cằn cỗi

Về xã Nam Trạch, hỏi ông Bế Văn Mai, ai cũng biết đến vì ông là “vua cam” trên vùng đất đồi này. Ông Bế Văn Mai (xã Nam Trạch, tỉnh Quảng Trị) là một trong những tấm gương tiêu biểu trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Từ ý tưởng nhen nhóm trong đại dịch COVID-19, với bản lĩnh, sự nhạy bén và tinh thần dám dấn thân, chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã gây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục ha, mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.

Phát triển năng lực học sinh miền núi

Phát triển năng lực học sinh miền núi

Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 góp phần quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy, học, kiểm tra đánh giá, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phát triển phẩm chất, năng lực học sinh... Đây là đánh giá được đưa ra tại Hội nghị tổng kết 5 năm triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn tổ chức ngày 19/9.

Hỗ trợ nông dân phòng trừ sâu hại cây dừa bằng biện pháp sinh học

Hỗ trợ nông dân phòng trừ sâu hại cây dừa bằng biện pháp sinh học

Sở Nông nghiệp và Môi trường Vĩnh Long đang tích cực triển khai hướng dẫn nông dân về biện pháp sinh học để phòng trừ các đối tượng sâu hại cây dừa; đặc biệt là sâu đầu đen và bọ cánh cứng, hai loại gây hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng vườn dừa.

Bẫy chuột bằng điện ở ruộng lúa tiềm ẩn nguy hiểm

Bẫy chuột bằng điện ở ruộng lúa tiềm ẩn nguy hiểm

Vụ Mùa 2025, tỉnh Hưng Yên gieo cấy trên 95.000 ha lúa, đang bước vào giai đoạn làm đòng, trổ bông, cũng là thời điểm bị chuột phá hoại nhiều. Tại một số địa phương xuất hiện tình trạng người dân dùng điện để bẫy chuột tiềm ẩn nguy hiểm đến sức khỏe và tính mạng của con người.

Làm việc thời vụ tại nước ngoài, mở ra cơ hội thoát nghèo​

Làm việc thời vụ tại nước ngoài, mở ra cơ hội thoát nghèo​

Thực hiện thí điểm đưa lao động sang Hàn Quốc làm việc thời vụ, giai đoạn 2023-2025, tỉnh Đắk Lắk đã cử gần 700 lượt lao động xuất cảnh, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và ngư nghiệp. Chương trình bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, góp phần tạo sinh kế, giảm nghèo cho nhiều hộ dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.

Trồng na trên núi giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo

Trồng na trên núi giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo

Nhiều hộ dân tại tỉnh Lạng Sơn đã đưa cây na về trồng trên các vùng đồi, núi đá. Loài cây này phát triển mạnh, đơm hoa kết trái, tạo nên thương hiệu na xứ Lạng nổi tiếng khắp nơi, mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội, giúp đời sống đồng bào các dân tộc nơi đây ngày càng ấm no, đủ đầy. Nhờ cây na, nhiều gia đình không chỉ thoát nghèo mà vươn lên trở thành những triệu phú vùng quê, có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống…

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Đắk Lắk phát huy vai trò Tổ công nghệ số cộng đồng

Thực hiện Kế hoạch 100 ngày cao điểm triển khai Phong trào “Bình dân học vụ số” của tỉnh Đắk Lắk, Tổ công nghệ số cộng đồng Buôn Alê B, phường Ea Kao đang hoạt động hết “công suất” để tuyên truyền đến từng bà con buôn làng về chủ trương chuyển đổi số và thực hành làm thủ tục hành chính trên môi trường số.

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Tận dụng diện tích mặt nước rộng, hệ sinh thái thuận lợi của lòng hồ thủy điện An Khê - Kanak, nhiều hộ dân tại xã Cửu An, tỉnh Gia Lai đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè. Mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế địa phương.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Những năm gần đây, Trường Đại học Trà Vinh có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nâng cao hiệu quả sản xuất.