Kỹ thuật nuôi cá mú

Kỹ thuật nuôi cá mú
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Cá mú thuộc họ Serranidae, trên thế giới có 159 loài thuộc 15 giống (De Bruin, Russel, & Bogusch, 1995), ở Việt Nam có 48 loài thuộc 11 giống (Lê Trọng Phấn, 1997). Cá mú phân bố ở vùng biển nước ấm, nơi có đá ngầm rạng san hô. Mùa hè sống ở ven bờ, mùa đông di cư ra vùng xa bờ. Chúng có tập tính dinh dưỡng ăn thịt, thức ăn gồm cá con, mực, giáp xác, thường ăn thịt lẫn nhau ở giai đoạn cá con. Phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nơi có rạng san hô, đá ngầm.

Nghề nuôi cá mú ở Châu Á đã xuất hiện khá lâu, nhưng nguồn cá giống hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nghiên cứu sản xuất giống nhân tạo cá mú đã bắt đầu ở Nhật Bản vào thập niên 60, các nước Đông Nam Á vào cuối thập niên 70. Đến nay, hơn 10 loài cá mú đã được nuôi và sản xuất giống nhân tạo như: cá mú đen chấm đen (Epinephelus malabaricus), cá mú đen chấm nâu (E.coioides), cá mú ruồi (E. tauvina), cá mú đỏ (E. akaara), cá mú cọp (E. fuscoguttatus), cá mú nghệ (E. lanceolatus), cá mú chuột (Cromileptes altivelis), cá mú sao (Plectropomus leopardus), cá mú son (Cephalopholis miniata)…

NUÔI CÁ THỊT

Tốc độ tăng trưởng khác nhau giữa các loài: tốc độ tăng trưởng của một vài loài cá mú nuôi ở nước ta sau 1 năm: cá mú son là 0,3 – 0,4 kg, cá mú đen chấm đen: 0,8 kg, cá mú đen chấm nâu 0,8 kg, cá mú ruồi: 1 – 1,2 kg, cá mú nghệ: 3 – 4 kg.

A. Nuôi trong ao

Chọn địa điểm và chuẩn bị ao nuôi

Vị trí nuôi phải có đủ nguồn nước biển, độ mặn của nước trong khoảng 18-32 ‰ và nhiệt độ 27-30oC, hàm lượng oxy hoà tan trên 3mg/lít, pH từ 7-8. Vị trí nuôi không bị ô nhiễm do nước thải (công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt), thuận tiện giao thông và liên lạc. Có nguồn cá giống rô phi và nguồn cá tạp (cá mồi) quanh năm.

Ao đất hoặc bê tông hình chữ nhật diện tích từ 0,5-1 ha. Độ sâu nước ao từ 1-2m. Hệ thống cống đôi bằng gỗ hoặc bê tông để cấp nước và thoát nước riêng biệt. Đáy ao phải phẳng và sạch để dễ quản lý và thu hoạch. Ao được tháo cạn nước và phơi khô đáy ao. Diệt cá tạp và địch hại trong ao bằng bột bả trà (Saponin) ở liều 100 ppm và cấp nước từ từ vào để tạo sự phát triển thức ăn tự nhiên trong ao.

Để tăng diện tích trú ẩn cho cá mú, các ống tre hoặc ống nhựa PVC 0,5m chiều dài và 100 cm đường kính được buộc thành bó, cho vào các khu vực riêng biệt của ao nuôi. Ở mỗi vị trí được đặt khoảng 12 bó. Trang bị hệ thống máy quạt nước và máy bơm.

Thả giống nuôi và chăm sóc

Thả 5.000-10.000 cá rô phi bố mẹ/ha, tỉ lệ đực/cái 1/5 đực để sản xuất cá rô phi giống làm nguồn thức ăn cho cá mú nuôi. Thả cá mú giống với mật độ 5.000 con/ha. Ngoài thức ăn tự nhiên là cá rô phi con, ngày cách ngày cho cá ăn thêm cá tạp hoặc tôm tép nhỏ với khẩu phần hàng ngày 3-10% thể trọng. Nên cho ăn 2 lần/ngày, vào buổi sáng sớm và buổi chiều tối. Một phần thức ăn được đặt trong khay để kiểm tra tình trạng bắt mồi của cá, phần thức ăn còn lại rãi đều khắp ao. Định kỳ hàng tháng kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá, điều chỉnh khẩu phần thức ăn hàng ngày. Hệ số thức ăn (FCR) từ 4 – 8. Thay nước từ 40-70%/ngày.

B. Nuôi trong lồng lưới

Chọn vị trí nuôi

Lồng lưới nên được đặt ở các vùng nước yên tĩnh, tại các vùng đầm phá, eo vịnh khuất gió ở các khu vực cửa sông hoặc đảo, không bị ô nhiễm công nông nghiệp, nội địa các chất độc và ít bị ảnh hưởng lũ mưa. Mật độ và cỡ cá thả nuôi

Cá giống nhỏ 2-3 cm sẽ được thả ương trong lồng lưới nhỏ (3x3x2 m) với kích cỡ mắt lưới 0,5-1,0 cm để tập cho ăn và tập quen với môi trường bè. Mật độ thả 50-60 con/m3. Thời gian ương 30-45 ngày đạt cỡ cá giống lớn 10-20 cm. Cá giống lớn được thả nuôi trong lồng lưới lớn (5x5x2m), mặt lưới 2-4 cm. Mật độ thả 10-20 con/m3. Trong quá trình nuôi nên tiếp tục phân cỡ để tránh hiện tượng cá ăn nhau.

Cho ăn và chăm sóc

Cá thường được tập cho ăn cá tạp và tôm tép nhỏ đã chết còn tươi trong vòng 1-3 tuần. Trong vài tháng đầu cá được cho ăn khẩu phần 10% thể trọng/ngày. Sau đó, giảm xuống 5-6% thể trọng/ngày.

Hàng ngày nên được kiểm tra lồng lưới để tránh hiện tượng cá ra ngoài do hư hỏng. Định kỳ vệ sinh lưới để đảm bảo sự thông thoáng của nước qua lưới được tốt và loại bỏ một số ký sinh trùng và vi sinh vật có hại bám vào lưới.

Thu hoạch

Thời gian nuôi 6-8 tháng, cá đạt trọng lượng trên 500gr bắt đầu thu hoạch từng phần bằng lưới nâng (dạng vó) tại các vị trí cho ăn trong ao. Lưới thu hoạch có kích cỡ 4x2x1m được đặt xuống gần đáy ao. Các vật dụng trú ẩn bằng ống PVC (đường kính 100-120 cm) được buộc thành bó đặt ở giữa lưới để gom cá lại trong các vật dụng trú ẩn, khi cá đã tập trung vào các vật dụng trú ấn sẽ nâng lưới lên để bắt lấy những cá có trọng lượng trên 400 gr chuyển đến bè thu hoạch được lắp đặt sẵn trong ao (8x4x1m hoặc 4x2x1m, mắt lưới 2-4 cm). Mật độ thả cá trong các bè này từ 10-20 con/m3. Cá mú được cho ăn 5% trọng lượng thân ngày cách ngày trong khi chờ tiêu thụ. Thu hoạch toàn bộ được tiến hành khi chỉ còn một ít cá mú trong ao sau khi đã thu từng phần, lúc này tháo cạn nước và sử dụng vợt để bắt cá.

Trước khi vận chuyển, cá được cho vào các bể xi măng sục khí 1-2 giờ, sau đó cho các bao đựng nước đá vào bể hạ nhiệt độ từ từ xuống 18oC. Sau đó cho từ 3-5 cá vào bao nylon bơm oxygen có mức nước 3-5 cm trong bao, cuối cùng cho vào thùng xốp (30x30x20 cm), cho một ít nước trong thùng xốp để làm mát trong quá trình vận chuyển.

MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP

– Bệnh do nguyên sinh động vật: Cryptocaryon irritans, Trichodina, Brooklynella.

– Bệnh do kí sinh trùng: Rhexanellosis, Benedenia, sán dây Tetrarhynchida

– Bệnh do vi khuẩn: các nhóm Vibrio, Aeromonas, Flexibacter, và Streptococcus. Các nhóm Vibrio spp gây các triệu chứng xuất huyết trên cớ thể hoặc vùng đuôi, Flexibacter thường gây cụt đuôi.

– Bệnh virus gây hoại tử thần kinh (Viral Nervous Necrosis): làm thân cá đen, bơi lờ đờ nổi trên mặt nước, mất phụ bộ.Bệnh cột sống cũng do virus, làm thân cá đen và cột sống bị biến dạng.

Có thể bạn quan tâm

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.