Kỹ thuật trồng Bồ đề

Kỹ thuật trồng Bồ đề
Tên khoa học: Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. ex Hardw.

Họ thực vật: Bồ đề (Styracaceae)

1. Đặc điểm hình thái

Cây gỗ trung bình, cao 18-20m, có thể trên 20m, đường kính ngang ngực 20-25cm. Thân cây màu trắng, tương đối tròn, vỏ mỏng. Tán cây mỏng và thưa. Rễ cọc phát triển yếu, ngược lại hệ rễ bàng phát triển mạnh và tập trung trên 80% ở tầng đất mặt 0-20cm, do vậy độ phì tầng đất mặt có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của Bồ đề.

Gỗ Bồ đề dùng chủ yếu trong công nghiệp giấy và làm diêm. Ảnh: vafs.gov.vn
Gỗ Bồ đề dùng chủ yếu trong công nghiệp giấy và làm diêm. Ảnh: vafs.gov.vn

2. Đặc tính sinh thái

Bồ đề là loài cây đặc hữu, mọc phổ biến ở miền Bắc trong rừng lá rộng thường xanh bị phá tán hoặc rừng gỗ xen Tre, Vầu, Nứa. Phân bố tương đối rộng ở nhiều vùng thuộc miền núi phía Tây Bắc, Việt Bắc xuống đến miền Tây Thanh Hóa và còn lác đác tới biên giới Nghệ An – Lào. Thường gặp nhiều nhất ở Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, song cũng có mặt ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, dọc theo phần trên của các lưu vực sông Hồng, sông Lô, sông Đà, sông Mã. Bồ đề được trồng ở vùng Trung tâm Bắc Bộ nhiều năm nay.

Bồ đề thường mọc tự nhiên sau nương rẫy hoặc sau lúc rừng vừa mới bị phá để phơi đất trống, đất còn tốt, trên hầu hết các đất khác nhau về đá mẹ, trừ đất đá vôi. Ở đó, Bồ đề mọc thuần loại hoặc xen lẫn với nứa, cây gỗ.

Bồ đề là loài cây tiên phong, đòi hỏi nhiều ánh sáng, chịu rét tương đối khỏe, nhưng không chịu được nhiệt độ cao (nhất là cây non) và khô hạn. Vì vậy chỉ thấy chúng có ở các vùng ẩm còn mang tính chất đất rừng rõ rệt. Bồ đề là loài cây mọc nhanh, chu kỳ khai thác ngắn 10-12 năm.

Bồ đề có thời kỳ rụng hết lá, ngừng sinh trưởng vào khoảng từ tháng 11-12 đến tháng 1-2 năm sau. Đặc điểm rụng lá, tán thưa thảm mục ít là các nhược điểm cơ bản của rừng Bồ đề để phòng hộ bảo vệ môi trường. Có 2 loại Bồ đề, loại nhiều nhựa mọc ở vùng cao, loại ít nhựa mọc ở vùng thấp là loại thường được trồng để lấy gỗ.

Bồ đề thích hợp với nhiệt độ trung bình năm 19-23oC, lượng mưa 1500-2000 mm/năm, số tháng khô không quá 3 tháng, không bị ảnh hưởng của gió Lào và phơn khô nóng.

Trồng thích hợp trên các loại đất feralit vàng, đỏ vùng đồi, núi thấp, có tầng phong hóa dày và thành phần cơ giới  tương đối nặng phát triển trên các đá mẹ gnai, phiến thạch mica, philit, trầm tích nêôgen, pocphiarit, phù sa cổ. Có thể mở rộng trồng trên đất feralit phát triển trên các đá mẹ riôlit, acgilit, phiến thạch sét. Cây mọc khỏe nơi đất sâu ẩm; không ưa đất đá vôi, đất đọng nước, đất bị glây; sinh trưởng kém nơi đất đã thoái hóa, đất cát và đất đá ong.

3. Giống và tạo cây con

Thu hái hạt giống:

Chỉ thu hái quả ở những cây 5 tuổi trở lên. Cây không sâu bệnh, không lệch tán, không mọc ở bìa rừng, không cụt ngọn. Tháng 9-10 quả chín, khi chín vỏ quả màu bạc có điểm phớt trắng, phần đầu quả có vết nứt. Vỏ hạt màu đen thẫm hoặc vàng da bò. Dùng cù nèo hoặc tay bẻ cành nhỏ dưới 1cm có quả.

Xử lý, bảo quản hạt giống:

Quả sau khi thu hái phải được xử lý ngay, không để quá 2 ngày. Loại bỏ tạp chất, trộn quả với cát có độ ẩm 20-22% (1 phần quả/1 phần cát theo thể tích). Vun thành luống dài 10m rộng 1,5m cao 0,15m. Tưới nước định kì 3 ngày 1lần bằng bình hoa sen lỗ nhỏ, lượng nước 40-50 lít cho một luống. Hàng ngày đảo xới 2 lần (sáng, chiều). Xới xong san phẳng, không nén chặt. Xử lý ban đầu như vậy khoảng 35-40 ngày kể từ khi hái.

Khi vỏ quả chuyển từ màu vàng xanh và cứng sang màu xám và mềm xốp thì quả đạt yêu cầu chất lượng xử lý ban đầu và chuyển sang bảo quản ổn định.

Sàng quả ra khỏi cát và lại trộn quả trong cát ấm 20-22% theo tỷ lệ 3 phần quả/1 phần cát (tính theo thể tích). Vun thành luống dài tùy điều kiện, rộng 1,5m, cao 0,6, không nén chặt. Phủ luống một lớp cát ẩm dày khoảng 3-4cm. Hàng tháng chăm sóc một lần, vào ngày định kỳ. Đảo quả, tưới ẩm 40-60 lít nước cho một luống quả dài 10m cao 0,6m rộng 1,5m, sau đó lại đánh luống như cũ. Hàng năm kiểm tra vào tháng 10 nếu tỷ lệ nảy mầm giảm 10% so với tỷ lệ nảy mầm ban đầu (trên 70%) thì đem sử dụng ngay.

Gieo ươm:

Dùng bầu hình trụ không đáy, dài 12cm, đường kính 6-7cm, khối lượng 0,3 đến 0,35kg/bầu để ươm cây giống.

Đất ruột bầu là 79% lớp đất mặt (sâu 0-10cm) của rừng cây gỗ hoặc giang tốt + 20% phân chuồng + 0,5% supe lân + 0,5% đạm sunfat.

Xếp bầu theo luống, cách nhau 2-3cm. Giữa các bầu lèn đất. Trên có dàn che bóng 50% ở độ cao 30cm.

Cấy hạt đã nảy mầm vào bầu. Hạt nảy mầm đến đâu đem cấy ngay, không làm gãy mầm.

Giữ ẩm thường xuyên cho bầu. Khi cây có 2 lá mầm, rỡ bỏ dàn che, chăm sóc đến lúc đem trồng.

Tiêu chuẩn cây con đem trồng:

Cây ươm 45-60 ngày tuổi, cao 10-15cm, có 5-7 lá, không bị sâu bệnh hại.

4. Trồng và chăm sóc rừng

Đất trồng Bồ đề được phân thành 6 hạng dựa vào cấp độ thoái hóa đất rừng theo tiêu chuẩn Nhà nước TCVN 3131-79 ban hành kèm theo quyết định số 657 ngày 27/12/1979 của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, nó tùy thuộc vào đặc điểm phẫu diện đất và thảm thực bì chỉ thị độ thoái hóa của đất. Trong đó, độ dày đất đóng vai trò chủ đạo.

Hạng I: Đất rừng nguyên trạng và thoái hóa rất nhẹ (đất tầng A dày trên 15cm, mùn trên 4%, tơi xốp);

Hạng II: Đất rừng thoái hóa nhẹ (đất tầng A dày trên 10cm, mùn 3,5-4%, xốp);

Hạng III: Đất rừng thoái hóa trung bình (đất tầng A dày trên 10cm, mùn 3-3,5%, xốp vừa);

Hạng IV: Đất rừng thoái hóa khá nặng (đất tầng A dày trên 5cm, mùn 2-3%, xốp kém);

Hạng V: Đất rừng thoái hóa nặng (đất tầng A dày dưới 5cm, 1-2% mùn, chặt);

Hạng VI: Đất rừng thoái hóa rất nặng (không có tầng A, mùn dưới 1%).

Đất hạng V và VI thường không sử dụng để trồng Bồ đề.

Đất hạng I trồng mật độ 1600 cây/ha (2,5×2,5m) đến 2000 cây/ha (2,5x2m), hạng II trồng 2000 cây/ha đến 2500 cây/ha (2x2m), hạng III trồng 2500 cây/ha đến 3300 cây/ha (1,8×1,8m) hoặc (2×1,5m).

Trên đồi bát úp, dốc ngắn, phát trắng toàn bộ; nơi đồi núi dốc trên 25o, cần chừa dải rừng trên đỉnh rộng ít nhất 10m mỗi bên sườn; ở nơi sườn dốc dài trên 100m thì cần chừa lại những băng rừng rộng 6-10m theo đường đồng mức, cách nhau 50-60m. Đốt thực bì những nơi đã phát trước khi cuốc hố 10-15 ngày.

Có thể trồng Bồ đề bằng cách gieo hạt thẳng, trồng bằng cây có bầu hay trồng cây thân cụt tùy theo thời vụ và đất đai và điều kiện, trong sản xuất thường gieo hạt thẳng.

Hạt giống Bồ đề phải đảm bảo theo quy định tại các tiêu chuẩn nhà nước TCVN 3127-79, TCVN 3128-79, TCVN 3129-79 và TCVN 3130-79 ban hành kèm theo quyết định số 657/QĐ ngày 27/12/1979 của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước.

- Gieo hạt thẳng:

Cuốc hố với kích thước 20x20x30cm. Sau khi cuốc hố, gieo ngay. Mỗi hố gieo 5-6 hạt đặt cách nhau 5cm, lấp dày 2cm.

Thời vụ gieo từ tháng 10 đến tháng 12, không gieo hạt quá muộn tới tháng 2 dương lịch.

- Trồng bằng cây có bầu:

Đào hố với kích thước 30x30x30cm.

Thời vụ trồng vào các tháng 1, 2, 3. Khi trồng không được làm vỡ bầu, xé bỏ vỏ bầu.

- Trồng bằng cây thân cụt:

Cây thân cụt được lấy từ cây gieo ươm đảm bảo tiêu chuẩn là có tuổi 10 đến 12 tháng, cao 1,2-1,5m, đường kính gốc 1-2cm. Cắt bỏ thân, để lại một đoạn dài 3-5cm tính từ cổ rễ.

Đào hố rộng 35-40cm, sâu 30cm. Trồng vào tháng 1-2. Khi trồng không để rễ bị cong, lấp đất kín cổ rễ, chỉ chừa lại phần thân trên mặt đất từ 2-3cm.

Sau 7-10 ngày cây đâm chồi mới. Theo dõi sau một tháng nếu thấy tỷ lệ cây sống không quá 85% thì phải tiến hành trồng dặm ngay trong mùa gieo trồng năm đó. Dặm bằng cây con có bầu.

Chăm sóc rừng 3 năm liền:

- Năm thứ nhất 4 lần:

Lần 1: Sau 15-20 ngày đối với cây có bầu, khi cây có 3-5 lá. Phá váng, xới nhẹ quanh hố. Tỉa để lại 1-2 chồi khỏe đối với cây thân cụt.

Lần 2: Khi cây cao 25-30cm, phát cỏ dại, mức độ phát quang mạnh yếu tùy thuộc thời tiết và mức độ sinh trưởng của cây con mà quyết định. Chừa lại những cây lá rộng tái sinh, bụi Giang, Nứa không ảnh hưởng đến cây trồng, tỉa tiếp chỉ để lại một chồi khỏe đối với cây thân cụt.

Lần 3: Khi cây cao 60-70cm, phát cỏ dại, cắt dây leo. Tỉa để lại 1 cây/hố đối với biện pháp gieo hạt thẳng.

Lần 4: Vào tháng 10-11 phát cỏ dại, dây leo, cây bụi chèn ép. Cuốc lấp đất sâu 10-15cm, bán kính 60cm, vun đất vào gốc.

- Năm thứ hai: Cây trồng gần khép tán, chăm sóc 2 lần. Nội dung chăm sóc gồm chặt cây leo, cây bụi chèn ép, xới đất quanh gốc rộng 60cm và vun gốc cây.

- Năm thứ ba: Chặt dây leo, tỉa thưa hạ bớt mật độ (nếu cần). Chặt bỏ cây bị sâu bệnh hại, song phải để lại tất cả những cây tái sinh không ảnh hưởng đến Bồ đề. Xới đất quanh gốc rộng 60cm và vun gốc cây.

5. Khai thác, sử dụng

Tỉa thưa rừng Bồ đề trồng thuần loại áp dụng quy trình QTN22-82 ban hành kèm theo quyết định số 474/QĐ/Kth ngày 14/5/1982 của Bộ Lâm nghiệp. Rừng đưa vào tỉa thưa khi có độ tàn che 0,7 trở lên, đã xuất hiện cây tỉa cành tự nhiên, thảm tươi sắp suy tàn. Rừng Bồ đề trồng cung cấp nguyên liệu giấy phải được tỉa thưa 2 lần từ khi khép tán đến khi khai thác chính ở tuổi 10. Tỉa lần đầu vào tuổi 2, lần 2 vào tuổi 3.

Đối với đất hạng I trồng 2000 cây/ha, tỉa thưa lần đầu với cường độ 50-55%, giữ lại 900-1000 cây có đường kính 6,5-7,5cm; tỉa thưa lần 2 với cường độ 25-35%, giữ lại 650-700 cây có đường kính 9,5-10cm.

Đối với đất hạng II trồng 2500 cây/ha, tỉa thưa lần đầu với cường độ 50-55%, giữ lại 1100-1250 cây có đường kính 5,5-6,5cm; tỉa thưa lần 2 với cường độ 35-40%, giữ lại 700-750 cây có đường kính 8,5-9,5cm.

Đối với đất hạng III trồng 3300 cây/ha, tỉa thưa lần đầu với cường độ 50-55%, giữ lại 1500-1650 cây có đường kính 5-6cm; tỉa thưa lần 2 với cường độ 500%, giữ lại 750-800 cây có đường kính 7-8,5cm.

Gỗ Bồ đề mềm, nhẹ, thuộc nhóm VIII, thớ mịn và đều, co ít, dễ xẻ, dễ chẻ nhỏ, bóc thành những tấm mỏng và không bị cong vênh, song dễ gãy. Gỗ Bồ đề đồng nhất, không lõi, tỷ lệ vỏ thấp, rất thuận tiện trong công nghiệp giấy. Bồ đề được dùng chủ yếu trong công nghiệp giấy và làm diêm.

Gỗ Bồ đề có nhựa thơm gọi là cánh kiến trắng (an tức hương, Benzoin), là nguyên liệu được dùng trong y học, chế biến định hương trong công nghệ nước hoa, chống ôi khét bảo quản mỡ béo, điều chế axit benzoic, trong công nghiệp chế biến véc ni và một số loại sơn đặc biệt.
 Theo vafs.gov.vn

Có thể bạn quan tâm

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.