Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới

Các nghi lễ Mo là nghi lễ nhằm cho con cháu lần cuối cùng được báo hiếu cha mẹ và chuẩn bị “hành trang” cho người chết đi sang thế giới Mường Ma. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Các nghi lễ Mo là nghi lễ nhằm cho con cháu lần cuối cùng được báo hiếu cha mẹ và chuẩn bị “hành trang” cho người chết đi sang thế giới Mường Ma. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN

Văn hoá Mường cổ có sự đa dạng, phong phú, và đặc sắc, trong đó, phải kể đến mo Mường, một di sản văn hoá tiêu biểu đã và đang tiếp tục được bảo tồn, phát triển. Mo Mường chứa đựng giá trị các loại hình văn hóa dân gian (văn học, diễn xướng, âm nhạc, múa và sân khấu, tín ngưỡng, tri thức dân gian). Đó là những áng mo kể chuyện (mo sử thi), mo nghi lễ (gắn với các nghi lễ tín ngưỡng), mo nhòm (mo tả cảnh).

Ngôn ngữ trong mo là kho từ vựng tiếng Mường với nhiều từ cổ là tài sản, di sản vô giá của dân tộc Mường nói riêng, Việt Nam nói chung. Hiện mo Mường đang được Chính phủ lập hồ sơ để trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 1Thầy Mo Mường Bùi Văn Minh chủ trì một buổi lễ làm mát nhà của người Mường. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 2Các nghi lễ Mo là nghi lễ nhằm cho con cháu lần cuối cùng được báo hiếu cha mẹ và chuẩn bị “hành trang” cho người chết đi sang thế giới Mường Ma. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 3Mo Mường được thực hành trong các nghi lễ gắn với đời sống tín ngưỡng, nghi lễ vòng đời của người Mường. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 4Không gian tín ngưỡng của một buổi lễ làm mát nhà của người Mường. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 5Đồ cúng trong buổi lễ làm mát nhà của người Mường dưới sự chủ trì của Thầy Mo. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 6Thầy mo là người thực hiện toàn bộ những nghi lễ cần có trong một đời người. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 7Mo Mường bao gồm nhiều thành tố văn hóa: Phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, lối sống, ngôn ngữ, văn chương, diễn xướng… phản ánh đặc trưng riêng mang bản sắc văn hóa của người Mường. Ảnh: Trọng Đạt-TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 8Một nghi thức trong buổi lễ. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN
Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới ảnh 9Mo Mường hướng đến trở thành di sản văn hóa thế giới. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

 Trọng Đạt

(TTXVN)
Dân tộc Mường

Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).

Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.

Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...

Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.

Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).

Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.

Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.


Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.

: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.

Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.

Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.

Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.

Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.

Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.

Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.

Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.

Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.

Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.

Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.

Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.

Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.

Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Mường

Có thể bạn quan tâm

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày 13/12/2025, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) diễn ra Ngày hội văn hoá Mông 2025. Sự kiện do doanh nghiệp Xã hội CRAFT LINK tổ chức quy tụ 8 nhóm Mông đến từ Cao Bằng, Lào Cai, Tuyên Quang, Điện Biên, Phú Thọ, Nghệ An với những trưng bày đặc sắc về trang phục, hoa văn và nghề thủ công truyền thống, nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa, nghề thủ công truyền thống và đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng người Mông trên cả nước.

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Nằm trong vùng lõi của Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, làng nghề dệt thổ cẩm thôn Lặn Ngoài (xã Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa) đang trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế bởi những câu chuyện văn hóa qua từng khung cửi. Ở đó, bên nếp nhà sàn, những người phụ nữ dân tộc Thái mỗi ngày cần mẫn đưa thoi, dệt nên những nét hoa văn đặc trưng của núi rừng Pù Luông.

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Ngày 12/12, UBND xã Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) tổ chức Lễ công bố quyết định và đón nhận Giấy chứng nhận Di sản văn hóa Phi vật thể quốc gia “Lễ mừng cơm mới của người Si La” và tổ chức Lễ hội mừng cơm mới năm 2025 tại bản Nậm Sin.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Tối 11/12, tại nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức khai mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Dân tộc Chứt ở tỉnh Quảng Trị hiện có 2.054 hộ với 8.227 nhân khẩu, sinh sống tập trung chủ yếu tại các xã Kim Phú, Kim Điền, Tuyên Lâm, Dân Hóa và Thượng Trạch. Tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực bảo tồn các nét văn hóa dân tộc Chứt thông qua việc xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa dân gian, mở ra hướng phát triển du lịch văn hóa vùng biên.

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Trong tiết trời se lạnh của buổi sớm mai nơi vùng cao Na Son (Điện Biên), chợ phiên Keo Lôm bừng lên sức sống khi đồng bào các dân tộc mang nông sản, sản vật rừng xuống chợ trao đổi, mua bán. Phiên chợ được họp vào ngày thứ 7 hàng tuần, không chỉ là nơi giao thương quen thuộc của người dân địa phương mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn để du khách khám phá, trải nghiệm những nét văn hóa đặc trưng của vùng cao Điện Biên.

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi những ngọn núi trùng điệp xanh mướt nối tiếp nhau trập trùng, có những bản làng bình yên của người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống bao đời nay. Ở nơi đây, tiếng hát, tiếng đàn, điệu khèn vẫn ngân vang mỗi buổi sớm, chiều. Giữa nhịp sống hiện đại, vẫn có những con người thầm lặng, bền bỉ cống hiến cả cuộc đời để bảo tồn tiếng hát, điệu múa, tiếng cồng chiêng và linh hồn của núi rừng quê hương. Đó chính là cội nguồn, bản sắc độc đáo riêng của dân tộc không thể nào bị lãng quên.

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

Trước nguy cơ mai một của một trong những di sản văn hóa độc đáo, dự án “Dáng giày nét Giáy” do InterArts Agency thực hiện đã mang đến một hướng tiếp cận mới mẻ thông qua chuỗi hoạt động trải nghiệm thực tế. Nổi bật trong số đó là workshop làm giày thủ công, nơi kết nối các nghệ nhân bản địa với thế hệ trẻ, biến di sản thành chất liệu sáng tạo đầy sức sống trong bối cảnh hiện đại.

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Tối 26/11 tại Trung tâm Văn hoá - Triển lãm tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan hát Then, đàn Tính tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất năm 2025 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Ngày 17/11, tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng tỉnh tổ chức khai mạc không gian trưng bày, trải nghiệm nhà dài truyền thống và tái hiện “Lễ lên nhà mới” của người Ê Đê. Đây là một trong những nét đặc sặc trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk.

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Chiều 15/11, tại Công viên bờ biển Nha Trang (cạnh Tháp Trầm Hương – Quảng trường 2/4), phường Nha Trang, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa khai mạc trưng bày triển lãm 250 bức ảnh với chủ đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”. Đây là hoạt động góp phần gìn giữ, tôn vinh, lan tỏa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của các dân tộc Việt Nam.

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.