Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 1)

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 1)

Theo dòng lịch sử, cây cà phê đã được người Pháp trồng tại các tỉnh Tây Nguyên từ những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 tại các đồn điền như CADA, ROSSI, CHPI với diện tích khoảng vài trăm ha. Trải qua hàng trăm năm, đến nay Việt Nam có hơn 710.000 ha trồng cà phê, năng suất đạt 28,2 tạ/ha, cho sản lượng hơn 1,84 triệu tấn. Ngành hàng cà phê đã tạo việc làm và thu nhập cho trên 600.000 hộ nông dân, với 2 triệu lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng trồng cà phê khác trên cả nước.

Cà phê là cây trồng chủ lực, đem lại giá trị xuất khẩu lớn và mang lại nguồn thu nhập chính cho đại đa số nông dân các tỉnh Tây Nguyên. Tuy nhiên, giá trị và sản lượng xuất khẩu loại nông sản chủ lực này còn thấp, lợi nhuận mang lại cho người nông dân những năm gần đây còn bấp bênh. Do đó, việc phát triển theo hướng bền vững, nâng cao giá trị ngành hàng cà phê là rất cần thiết.

Nhóm phóng viên Thông tấn xã Việt Nam khu vực Tây Nguyên thực hiện loạt 4 bài “Nâng tầm giá trị cà phê Việt” nhằm đánh giá thực trạng sản xuất cà phê, khó khăn, hạn chế cũng như những giải pháp để nâng tầm giá trị cây cà phê tại các tỉnh Tây Nguyên.

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 1) ảnh 1Việt Nam hướng tới xây dựng chuỗi ngành hàng cà phê Việt Nam chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Bài 1: Vẫn ở phân khúc thấp

Việt Nam đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê và nhiều năm liền đứng đầu xuất khẩu cà phê nhân Robusta. Việt Nam đã hình thành nhiều vùng chuyên canh sản xuất cà phê hàng hoá lớn nhưng nhìn chung người trồng cà phê vẫn chưa có được lợi nhuận tương xứng. Bởi, cà phê Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, người tiêu dùng thế giới còn chưa biết nhiều đến cà phê Việt Nam.

Chưa hưởng lợi nhiều

Tây Nguyên nổi danh với những vùng cà phê bạt ngàn, với diện tích hơn 653.000 ha chiếm 91,2% diện tích và 93,2% sản lượng cà phê của cả nước. Cây cà phê không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội mà có ý nghĩa to lớn về văn hóa, du lịch, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu nhập của đại đa số người dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đến nay, người nông dân vẫn chưa thực sự được hưởng sự “thịnh vượng” từ cây trồng có giá trị xuất khẩu tỷ đô đem lại.

Ông Lê Văn Thức, xã K’Dang, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai trồng 6 sào (6.000 m2) cây cà phê. Không chỉ là “nguồn sinh kế”, vườn cà phê còn song hành cùng với gia đình ông từ khi nghèo khó đến nay. Tuy nhiên, ông Thức cho biết, những năm gần đây, giá phân bón và thuốc bảo vệ thực vật tăng cao, dẫn đến người nông dân lãi không đáng kể từ cây cà phê. Niên vụ 2021-2022, gia đình ông thu được 80 triệu đồng tiền cà phê, trừ chi phí phân bón, nhân công thu hái, chăm sóc hết 40 triệu đồng. Như vậy, một năm chăm sóc, gia đình ông lãi gần 40 triệu đồng từ 6 sào cà phê.

Còn gia đình ông Nguyễn Văn Thu, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk trồng 1 ha cà phê đã hơn 30 năm nay. Theo ông Thu, nông dân trồng cà phê hiện nay gặp nhiều khó khăn khi chi phí đầu vào cao, giá đầu ra thấp dẫn đến nông dân thu lãi thấp, có thời điểm không đủ trang trải chi phí đầu tư. Ông Thu kiến nghị, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cần nghiên cứu, có phương án để giá cà phê đạt hơn 60.000 đồng/kg cà phê nhân chất lượng cao và ổn định. Ngành chức năng cũng cần đồng hành, hỗ trợ người dân để có giải pháp giảm chi phí đầu vào và sản xuất đạt yêu cầu của thị trường.

Ông Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Nông cho biết, tỉnh hiện có gần 140.000 ha trồng cà phê, tổng sản lượng ước đạt 356.612 tấn/năm. Cà phê được trồng tại Đắk Nông chủ yếu là cà phê vối Robusta (chiếm 99% diện tích), là ngành hàng chủ lực của tỉnh, chiếm giá trị xuất khẩu hằng năm tương đối lớn, song phần lớn vẫn bán trung gian thông qua các thương lái, chủ yếu bán ở dạng thô nên giá trị gia tăng thấp.

Thực tế này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu và tìm giải pháp nhằm hình thành, phát triển chuỗi ngành hàng cà phê bền vững; ít bị tác động, ảnh hưởng bởi các vấn đề về bất ổn thị trường, giới hạn nguồn cung khi mà quỹ đất cho canh tác cà phê ngày càng hạn hẹp nhằm nâng cao giá trị gia tăng cho ngành hàng cà phê của tỉnh Đắk Nông trong tương lai theo hướng bền vững, đa giá trị, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tích hợp.

Theo đại diện Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH), trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể là ngành cà phê, chi phí sản xuất còn cao, đặc biệt là cho phân bón và nhân công. Người sản xuất vẫn sử dụng quá mức lượng phân bón hóa học và nước tưới dẫn đến cạn kiệt và suy thoái tài nguyên đất và nguồn nước ngầm.

Hầu hết diện tích cà phê của Việt Nam được sản xuất bởi các nông hộ cá thể (khoảng 90%), với diện tích bình quân từ 0,8 - 1,2 ha/hộ trong khi diện tích vẫn đang độc canh cây cà phê chiếm phần lớn. 95% sản lượng cà phê đều được thu mua qua thương lái và đại lý trung gian (Đại lý/Công ty địa phương) trước khi đến công ty chế biến thương mại khiến chi phí tăng cao, gây nhiều khó khăn trong quản lý chất lượng và thúc đẩy tính minh bạch như truy xuất nguồn gốc trong chuỗi giá trị.

Ngoài giá cả vật tư nông nghiệp tăng cao, nhìn chung, thực trạng sản xuất và tiêu thụ cà phê ở Việt Nam nói chung, vùng Tây Nguyên nói riêng hiện nay đang gặp nhiều hạn chế, thiếu bền vững như: quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, diện tích cà phê già cỗi chiếm tỷ lệ khá cao; diện tích trồng chưa gắn với vùng nguyên liệu, quy hoạch nên thiếu tính bền vững; khâu chế biến, bảo quản thiếu đồng bộ. Ngoài ra, kỹ thuật canh tác chưa hợp lý (bón phân không cân đối, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, chưa coi trọng cây che bóng và chắn gió, thu hái không đảm bảo độ chín).

Mặt khác, người sản xuất cà phê chưa có tiếng nói trong các quan hệ liên kết ngành hàng, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đầu vào và đầu ra, nên thường chịu thiệt thòi và chưa bảo vệ được lợi ích của chính mình. Một số mô hình liên kết nông dân đã được thành lập gần đây như nhóm hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã nhưng chưa nhiều, quy mô nhỏ, vẫn phụ thuộc vào các tác nhân cung ứng dịch vụ, chưa hình thành chuỗi giá trị có hiệu quả, chủ yếu tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà chưa phát huy được tiếng nói và vị thế của người nông dân sản xuất cà phê.

Giá trị ở phân khúc thấp

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay diện tích canh tác cà phê cả nước khoảng 710.600 ha trải rộng trên 20 tỉnh; trong đó diện tích cho thu hoạch là 653.200 ha, sản lượng cà phê nhân đạt 1,845 triệu tấn. Diện tích và sản lượng đều có xu hướng tăng trong 5 năm gần đây. Việt Nam đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê và nhiều năm liền đứng đầu xuất khẩu cà phê nhân Robusta.

Sản lượng xuất khẩu trong giai đoạn 2015-2021 dao động trong khoảng 1,2 - 1,68 triệu tấn cà phê các loại, tương đương với kim ngạch xuất khẩu từ 2,3 - 3,9 tỷ USD. Riêng năm 2022, giá trị xuất khẩu cà phê cà phê đạt cao nhất từ trước đến nay, với hơn 4 tỷ USD.

Cà phê nhân của Việt Nam đã xuất khẩu đến 80 quốc gia và vùng lãnh thổ và chiếm 10% thị phần thị trường cà phê nhân thế giới. Việt Nam đã hình thành nhiều vùng chuyên canh sản xuất cà phê hàng hoá lớn, tạo việc làm và thu nhập cho hàng trăm nghìn hộ nông dân.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu không nhỏ, ngành cà phê của Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu sản xuất cà phê bền vững; trong đó nổi bật là vấn đề chất lượng (quản lý sử dụng đầu vào trong canh tác, mở rộng diện tích cà phê có chứng nhận, chế biến cà phê, xuất khẩu...).

Trong thương mại, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô, cà phê Việt Nam được trộn lẫn với cà phê từ các nước khác để chế biến nhiều sản phẩm cà phê khác nhau nên người tiêu dùng không biết đến cà phê Việt Nam. Giá xuất khẩu cà phê của Việt Nam thấp hơn trung bình thế giới, nên dù đứng hàng đầu về sản lượng xuất khẩu cà phê, Việt Nam chỉ đứng thứ 10 về giá trị.

Vùng Tây Nguyên có diện tích đất nông nghiệp trên 5 triệu ha; trong đó có khoảng 1,3 triệu ha là đất đỏ Bazan màu mỡ cùng với khí hậu thuận lợi, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, đặc biệt là cây cà phê. Tuy nhiên, để duy trì đà phát triển, ngành cà phê vẫn đang đối mặt với những thách thức lớn.

Cụ thể là giá trị cà phê chủ yếu vẫn thuộc phân khúc cấp thấp; xuất khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô; tổ chức sản xuất quy mô còn nhỏ lẻ; chất lượng chưa đồng đều; công nghệ chế biến sâu còn hạn chế là một trong những thách thức khi phải đáp ứng các thị trường lớn với yêu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao. (Xem tiếp Bài 2: Mở rộng Chương trình tái canh cà phê)

TTXVN

TTXVN

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.