Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 3)

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 3)

Bài 3: Hình thành chuỗi liên kết bền vững

Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, đa giá trị, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tích hợp là hướng đi của các tỉnh Tây Nguyên hiện nay; trong đó có ngành hàng cà phê. Để phát triển cà phê bền vững, một giải pháp tất yếu là hình thành chuỗi liên kết trong đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, thu mua nguyên liệu đầu vào, trao đổi kỹ thuật sản xuất, tiếp cận chuyển giao khoa học công nghệ và ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cà phê.

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 3) ảnh 1Nông dân Đắk Lắk thu hái cà phê quả chín đảm bảo chất lượng phục vụ xuất khẩu. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Hiệu quả từ liên kết sản xuất

Tại tỉnh Lâm Đồng hiện có 20 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ cà phê với hơn 9.200 hộ liên kết, diện tích 17.643 ha, sản lượng thu mua đạt 59.951 tấn (chiếm 11,63 tổng sản lượng cà phê toàn tỉnh). Các hộ sản xuất liên kết với các đơn vị tiêu thụ trên cơ sở số hộ trồng cà phê, diện tích canh tác và sản lượng thu được, đơn vị trực tiếp đem tiêu thụ theo hợp đồng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp đang đầu tư thiết bị công nghệ để sản xuất sản phẩm cà phê hòa tan nhằm đem lại giá trị cao và đáp ứng với nhu cầu tiêu dùng; trong đó có 12 chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ cà phê chất lượng cao.

Tại tỉnh Gia Lai, những năm qua, việc hình thành một số mô hình liên kết giữa hộ nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cà phê theo chuỗi giá trị đã bước đầu có những tác động tích cực đối với sự phát triển của ngành hàng cà phê. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành quy mô liên kết sản xuất cà phê lớn, điển hình như Chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ cà phê của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Hiệp với diện tích 20.000 ha, có 12 hợp tác xã và 7.000 hộ nông dân tham gia.

Tại Đắk Lắk, toàn tỉnh hiện có 39 tổ hợp tác và 53 hợp tác xã nông nghiệp trong lĩnh vực sản xuất cà phê. Trong số đó, tỉnh có khoảng 31 hợp tác xã cà phê có liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp và 5 hợp tác xã có sản phẩm được chứng nhận OCOP. Hợp tác xã sản xuất cà phê hiện nay hoạt động mang lại hiệu quả khá cao, phù hợp với điều kiện sản xuất cà phê của tỉnh và là xu hướng phát triển tất yếu trong quá trình hội nhập quốc tế.

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 3) ảnh 2Đắk Lắk chú trọng thu hoạch cà phê quả chín đảm bảo chất lượng phục vụ xuất khẩu. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Thực tiễn, liên kết sản xuất đã giúp nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê ở các hộ nông dân và cải thiện lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Quyết Tiến (xã Quảng Hiệp, huyện Cư M’Gar) thành lập vào tháng 9/2015, hiện có 154 thành viên, canh tác trên diện tích 232 ha. Những năm qua, hợp tác xã hướng dẫn thành viên sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững như: Trồng xen canh cây tiêu trong vườn cà phê, sử dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất, sản xuất cà phê đặc sản. Hợp tác xã điều kiện cho thành viên tiếp cận thị trường, thường xuyên cập nhật các tiến bộ khoa học - kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất.

Gia đình bà Đào Thị Lý, xã Quảng Hiệp, huyện Cư M’Gar trồng 2 ha cà phê, tham gia Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ Quyết Tiến hơn 6 năm nay. Tham gia hợp tác xã, gia đình bà được hướng dẫn sản xuất theo hướng hữu cơ, được hỗ trợ một phần kinh phí để đầu tư nhà màng, máy chế biến ướt, hệ thống tưới nước tiết kiệm. Hiện nay, bà đã thành thạo quy trình cà phê chế biến ướt. Cà phê sau khi hái về được đưa vào máy lựa chọn quả chín, sau đó tách bóc vỏ và chuyển đến nhà màng phơi khô.

Bà Đào Thị Lý chia sẻ, từ khi vào hợp tác xã thì bán cà phê giá cao hơn thị trường từ 10.000 đồng/kg trở lên. Kinh tế gia đình cải thiện hơn so với trước đây khiến gia đình yên tâm, tập trung tái canh, chăm sóc tốt vườn cây. Ngoài ra, từ khi tham gia hợp tác xã, gia đình được hướng dẫn thu hoạch khi cà phê đạt quả chín từ 90% trở lên. Có nhà màng, gia đình cũng không sợ mưa ướt. Ưu điểm của phương pháp chế biến ướt là giữ được trọn vẹn, đồng nhất hương vị cà phê. Nhờ đó, chất lượng sản phẩm tăng lên hơn 30% so với phương pháp chế biến khô, thu nhập cũng tăng lên đáng kể trên cùng diện tích.

Xây dựng vùng sản xuất tập trung


Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu 2/9 Đắk Lắk (Simexco Đắk Lắk) là doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong chuỗi liên kết với hệ thống nông dân để sản xuất cà phê bền vững, đạt các tiêu chuẩn quốc tế và áp dụng các phương thức canh tác mới. Đến nay, công ty đã liên kết với 40.000 hộ nông dân, diện tích 48.000 ha cà phê. Ông Lê Đức Huy, Tổng Giám đốc Công ty cho biết, Simexco đã liên kết với nông dân tại 6 huyện ở tỉnh Đắk Lắk để sản xuất cà phê có chứng nhận, bền vững. Nông hộ liên kết với Simexco đều được chứng nhận theo các bộ tiêu chuẩn bền vững. Sau 11 năm liên kết với nông dân, công ty đã có những vùng sản xuất quy mô với 20 hợp tác xã sản xuất cà phê, mục tiêu tiến tới thành lập mỗi xã một hợp tác xã. Các hợp tác xã liên kết tạo thành cánh đồng mẫu lớn, đóng vai trò lớn trong chuỗi giá trị cà phê Việt Nam và định hướng cho hợp tác xã từ tăng năng suất đến tăng chất lượng, tăng giá trị, đa giá trị từ cây cà phê.

Nâng tầm giá trị cà phê Việt (Bài 3) ảnh 3Công ty TNHH MTV cà phê BaZan ở thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông, mỗi năm cung cấp 60 tấn cà phê thành phẩm phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu sang Italia và các nước khác ở châu Âu. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Hoài Dương, cần tổ chức lại sản xuất cà phê từ manh mún, nhỏ lẻ sang hướng hợp tác, liên kết. Các tổ hợp tác, hợp tác xã liên kết nông dân để có vùng sản xuất tập trung, thành viên hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau và hưởng ưu đãi từ các chính sách để cùng vươn lên. Ngoài các chính sách nhà nước cần kêu gọi các nhà đầu tư, doanh nghiệp liên kết, hợp tác với các vùng sản xuất từ tổ chức sản xuất đến khâu đưa ra thị trường tiêu thụ.

Còn theo đại diện Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), việc liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với hợp tác xã nông nghiệp, nông dân đã khai thác được nguồn vốn, kinh nghiệm tổ chức sản xuất, thị trường của các doanh nghiệp; trong đó hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò là cầu nối hết sức quan trọng; đồng thời tạo cơ hội cho nông dân được chuyển giao và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất cà phê. Việc liên kết sản xuất giúp nông dân tạo ra số lượng sản phẩm lớn hơn, chất lượng đồng đều hơn; doanh nghiệp thuận lợi trong quá trình thu mua, giảm chi phí, tỷ lệ hao hụt trong chế biến, lợi nhuận cao hơn sẽ hỗ trợ trở lại cho nông dân nhiều hơn. Còn với nông dân tham gia chuỗi liên kết, sẽ trực tiếp bán hàng cho doanh nghiệp, không phải qua trung gian. Đồng thời, nông dân cũng nắm bắt được tiêu chuẩn chất lượng doanh nghiệp cần thu mua, từ đó điều chỉnh hành vi canh tác phù hợp.

Vì vậy, thời gian tới, các địa phương cần tập trung thúc đẩy hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cà phê tại địa phương, kêu gọi các đơn vị, doanh nghiệp để liên kết giữa nông dân - hợp tác xã với các doanh nghiệp trong và ngoài địa phương, áp dụng và thực hiện có hiệu quả các chính sách của nhà nước hiện hành trong hỗ trợ phát triển liên kết chuỗi, vùng nguyên liệu cà phê như Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025 theo Quyết định số 1088/QĐ-BNN-KTHT; dự án hỗ trợ sản xuất thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiệu thụ sản phẩm nông nghiệp theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP. (Xem tiếp Bài 4: Tập trung chế biến sâu, chất lượng cao)

TTXVN

TTXVN

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.