Nhiều triển vọng với xuất khẩu trái cây Việt Nam (Bài 1)

Nhiều triển vọng với xuất khẩu trái cây Việt Nam (Bài 1)
Năm 2017, xuất khẩu trái cây của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh, nhiều thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia... đều có mức tăng trưởng cao và nhiều loại trái cây như thanh long, xoài, nhãn, vải thiều, cam, quýt... đã xuất hiện trên kệ các siêu thị lớn ở Mỹ, Nhật Bản.
Trái cây của Việt Nam thâm nhập mạnh mẽ vào các thị trường thế giới đó là nhờ người trồng trái cây trong nước đã đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu. Nhiều vùng sản xuất trái cây theo chuỗi giá trị liên kết, sản xuất theo các tiêu chuẩn quốc tế đã được triển khai đúng hướng.

Không chỉ dừng lại ở đó, ngành xuất khẩu trái cây và rau củ quả nói riêng được các chuyên gia đánh giá vẫn còn nhiều dư địa, thị trường thế giới vẫn còn nhu cầu rất lớn trong việc bổ sung dinh dưỡng và các loại vitamin hàng ngày. Tuy nhiên, để làm được điều này, ngành xuất khẩu trái cây phải có hướng khắc phục những nhược điểm còn vướng và có giải pháp cụ thể để mở rộng lối đi cho ngành này trong tương lai.
Nông dân xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành (Long An) chăm sóc thanh long. Ảnh: Bùi Như Trường Giang - TTXVN
Nông dân xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành (Long An) chăm sóc thanh long. Ảnh: Bùi Như Trường Giang - TTXVN
Bài 1: Vẫn sản xuất nhỏ lẻ 

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, ước tính xuất khẩu trái cây Việt Nam cả năm 2017 đạt 3,5 tỷ USD, tăng 43% so với năm 2016. Các cơ quan chức năng đánh giá, xuất khẩu trái cây đến thời điểm này đã vượt qua cả lúa gạo, làm tăng giá trị sản xuất cho người dân Việt Nam. Thế nhưng, bên cạnh việc tăng giá trị, ngành sản xuất, chế biến và xuất khẩu trái cây vẫn còn nhiều khó khăn, chưa xây dựng được nhiều vùng chuyên canh trái cây lớn. 

Sản xuất theo nông hộ đặc trưng 
Với đặc điểm sản xuất tự túc từ nhiều năm qua, người sản xuất trái cây Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng chủ yếu tự gây dựng vườn trên đất nhà đang có. Và dường như rất ít nông dân có tầm nhìn chiến lược là phải mở rộng vườn cây, tạo vùng sản xuất lớn hơn và theo chủng loại riêng để cung ứng cho thị trường. 

Bên cạnh đó, diện tích sản xuất cây ăn trái của Việt Nam lại chủ yếu là vườn tạp, có rất ít vườn chuyên canh cây trái với diện tích lớn. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả nước hiện có 875.000 ha cây ăn trái, trồng chủ lực 15 loại trái phục vụ cho chế biến và xuất khẩu; trong đó, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 38% diện tích cây ăn trái cả nước, nhưng sản lượng cung ứng chiếm hơn 50%. 

Theo ông Nguyễn Hồng Sơn, Cục trưởng Cục trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay các tỉnh đã tiến hành quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp theo tái cơ cấu nông nghiệp. Tuy nhiên, những quy hoạch này vẫn chưa có trọng tâm, chưa tập trung tối ưu để tạo ra những vùng sản xuất có tính cạnh tranh. Đây là nguyên nhân khiến cho xuất khẩu trái cây thiếu ổn định. Số vùng chuyên canh còn ít nên không đủ lượng hàng cung ứng cho khách hàng đặt hàng lớn và thời gian ngắn. 

Cho đến nay, một số tỉnh cũng đã hình thành được nhiều vùng tập trung như: xoài cát Hòa Lộc ở Tiền Giang, thanh long Bình Thuận, vải thiều Bắc Giang, Hải Dương, nho Ninh Thuận, bưởi năm roi Vĩnh Long… nhưng nguồn nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu vẫn còn thiếu. 

Bên cạnh đó, nguồn giống và quy trình chăm sóc cũng không đồng đều, không ổn định để tạo thuận lợi cho sản xuất. Không những vậy, các thị trường nhập khẩu trái cây Việt Nam cũng đặt ra nhiều rào cản kỹ thuật trong kiểm dịch thực vật thay cho hàng rào thuế quan trước đây, làm cho người sản xuất phải chuyển đổi kỹ thuật sản xuất và chăm sóc, chế biến mới đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 

Khi chính doanh nghiệp đến với thực tiễn sản xuất cây ăn trái các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long mới thấy được nguồn cung nguyên liệu vốn đã thiếu, mà nguồn nguyên liệu đạt chất lượng cao theo yêu cầu của các thị trường "khó tính" lại càng hiếm hơn. 

Cho đến nay, vùng chuyên canh cây ăn trái được chứng nhận các tiêu chuẩn VietGAP và GlobalGAP chưa nhiều. Điều này dẫn đến đa số trái cây vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ bán được cho các thương lái. Sau khi tuyển chọn từ nhiều vườn khác nhau mới có thể cung ứng cho doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu. Số còn lại thì cung ứng cho thị trường nội địa. 

Điển hình như tại tỉnh Tiền Giang, hiện nay 98% sản lượng trái cây của tỉnh phải bán cho các thương lái thu gom, thay vì bán trực tiếp cho doanh nghiệp để rút ngắn khoảng cách giao thương như mong muốn, ông Cao Văn Hóa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tiền Giang chia sẻ. 

Cũng chính vì hình thức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún này đã làm cho việc ứng dụng công nghệ vào thu hoạch và chế biến gặp nhiều khó khăn. 

Thất thoát chiếm tỷ lệ cao 
Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, với diện tích sản xuất nhỏ, rời rạc từ các vườn cây khác nhau, thì các khâu chăm sóc, bón tưới, thu hoạch cũng chỉ có thể thực hiện rời rạc, nhỏ lẻ. Bởi, nếu muốn đưa công cụ, máy móc vào sản xuất và thu hoạch trái cây, cần phải áp dụng trong một khu vực rộng lớn.
Thu mua thanh long tại xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành (Long An). Ảnh: Bùi Như Trường Giang - TTXVN
Thu mua thanh long tại xã Thanh Phú Long, huyện Châu Thành (Long An). Ảnh: Bùi Như Trường Giang - TTXVN

Ông Nguyễn Văn Hòa, Viện trưởng Viện cây ăn quả Miền Nam nhấn mạnh, với việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất trái cây của vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay vẫn còn yếu, làm cho khâu thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch chiếm tỷ lệ rất cao, lên đến 30%.

Thêm vào đó, hình thức sản xuất nhỏ lẻ làm tăng thêm các chi phí sản xuất khi tưới, bón phân, chăm sóc. Từ đó làm cho giá thành sản xuất cũng tăng cao, người sản xuất cũng không thu được lợi nhuận nhiều như mong muốn, gây khó khăn cho người thu mua, tuyển chọn vườn cây cũng như chất lượng sản phẩm. 

Khi qua nhiều khâu như vậy, chất lượng sản phẩm cho dù tốt nhất, cũng khó có thể giữ được như ban đầu với điều kiện bảo quản ở nhiệt độ bình thường như hiện nay. Khâu bảo quản sản phẩm của ngành trái cây cũng chưa được chú trọng ở nhiều nơi. Trong khi các doanh nghiệp tham gia vào khâu sản xuất, xuất khẩu chưa nhiều, thì chính người sản xuất phải biết bảo quản sản phẩm của mình trước tiên mới có thu nhập cao. 

Thêm vào đó, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp lại chủ yếu xuất khẩu trái cây tươi nên giá trị còn thấp, dễ bị tác động của các rào cản kỹ thuật như kiểm dịch thực vật, chất lượng giảm nhanh, thời gian bảo quản ngắn vì chưa có công nghệ bảo quản tiên tiến và các vấn đề an toàn thực phẩm… 

Cùng với những điểm yếu trong khâu chế biến và bảo quản sau thu hoạch, thì hạ tầng giao thông và logistics cũng là mấu chốt làm cho ngành sản xuất và xuất khẩu trái cây giảm uy lực của đôi cánh. 

Qua những lần khảo sát thực tế tại các vùng sản xuất cây ăn trái của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có những vườn bưởi da xanh, nhãn… rất lớn, cho chất lượng cao và được doanh nghiệp liên kết bao tiêu sản phẩm với giá cao, nhưng hầu hết lại gặp khó bởi giao thông không thuận lợi, hạ tầng không đủ sức để phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa lớn. 

Hầu như sản phẩm thu hoạch tại vườn phải vận chuyển nhiều lần để đến xe hàng lớn. Từ đó mới chuyển về khu vực tập trung. Với sản phẩm trái cây, chỉ cần việc bốc dỡ được thực hiện nhiều lần cũng đã làm giảm chất lượng sản phẩm, xấu mẫu mã, từ đó sẽ giảm giá thu mua, thiệt hại cho người sản xuất. 

Tại Diễn đàn “Phát triển thị trường quốc tế cho ngành rau, củ, quả và giải pháp phát triển hệ thống logistics phục vụ nông nghiệp, nông thôn” diễn ra tại Đồng Tháp, ngày 18/12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng cho rằng, Việt Nam còn nhiều bất cập về hạ tầng giao thông, logistics nên ngành rau củ quả giảm khả năng cạnh tranh với các nước khác ngay tại thị trường nội địa cũng như thị trường nước ngoài. 

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chi phí logistics của Việt Nam tính theo tỷ trọng GDP, chiếm khoảng từ 18-20%, cao gấp đôi so với phí vận chuyển của các nền kinh tế phát triển và hơn 4% so với bình quân phí vận chuyển toàn cầu. Chính vì điều này mà chỉ trong 2 năm, từ 2014 đến 2016, năng lực logistics của Việt Nam giảm 16 bậc, từ vị trí 48 xuống vị trí 64 trên thế giới. 

Từ những vướng mắc này, ngành trái cây Việt Nam phải xác định rằng, tự chuyển mình, nâng chất lượng từ những vườn cây đến chất lượng sản phẩm cùng những dịch vụ kèm theo, thì mới có hi vọng phát triển mạnh mẽ. (Xem tiếp Bài 2: Nâng chất để cạnh tranh)
Hồng Nhung
(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Tận dụng diện tích mặt nước rộng, hệ sinh thái thuận lợi của lòng hồ thủy điện An Khê - Kanak, nhiều hộ dân tại xã Cửu An, tỉnh Gia Lai đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè. Mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế địa phương.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Những năm gần đây, Trường Đại học Trà Vinh có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nâng cao hiệu quả sản xuất.

Thầy Danh Mến, giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ, đứng lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng TP. Cần Thơ, với sự hỗ trợ của màn hình LED hiện đại

Ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy tại Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ

Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ (thành phố Cần Thơ) đang tích cực chuyển đổi số, đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lý đào tạo thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà trường đã kết hợp kho học liệu điện tử hiện đại với giáo trình giấy truyền thống, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tăng sinh và học viên, đồng thời phát huy ngôn ngữ Pali - Khmer trong bối cảnh chuyển đổi số.

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

Chất lượng chính là mẫu số chung trong mọi giải pháp phát triển chanh leo. Từ giống cây, quy trình canh tác, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu - mỗi khâu đều đòi hỏi tiêu chuẩn cao, minh bạch và đồng bộ.

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Từ những luống gừng xanh tốt trên cao nguyên đá nơi địa đầu Tổ quốc, đồng bào Mông và Giáy ở Lũng Cú (tỉnh Tuyên Quang) đã mạnh dạn thay thế cây ngô kém hiệu quả, biến cây trồng quanh nhà thành cây kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Cây gừng bản địa không chỉ mở ra hướng thoát nghèo bền vững cho đồng bào vùng cao mà còn từng bước xây dựng thương hiệu, hướng tới sản xuất bền vững, gia tăng giá trị.

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

Tại vùng biên tỉnh Đồng Nai, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã thay đổi lối mòn canh tác cũ để làm giàu bền vững không chỉ trồng một loại cây mà là đa canh. Nhiều hộ đã kiên trì, dám thay đổi tận dụng khoa học kỹ thuật làm giàu trên chính mảnh đất của mình, biến những khó khăn thành cơ hội phát triển bền vững.

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Từ một thanh niên đam mê thủy sản và không ngừng học hỏi, anh Nguyễn Phúc Mến (sinh năm 1987, ngụ phường Bình Minh, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành một trong những người tiên phong và thành công với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn, có quy mô lớn tại địa phương. Mô hình này không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi mới cho ngành nông nghiệp ở Tây Ninh.

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Theo khảo sát của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, trồng rau màu thích ứng biến đổi khí hậu vùng ngọt hóa Gò Công lợi nhuận cao gấp 2 đến 7 lần so với trồng lúa, tùy theo loại rau màu. Cao nhất là rau ăn lá cho lợi nhuận bình quân trên 450 triệu đồng/năm, cao gấp 7 lần thu nhập từ cây lúa. Nhờ vậy, nông dân sống khỏe, tạo dựng cơ nghiệp bền vững, không còn lo thiên tai như trước.

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Các xã vùng núi Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa) từng có thời gian dài nằm trong diện nghèo nhất cả nước. Nhưng hiện nay, vùng đất này đang “thay da đổi thịt” nhờ lựa chọn đúng cây trồng “hái ra tiền” - sầu riêng.

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Với 43 dân tộc cùng sinh sống, rào cản ngôn ngữ là thách thức lớn nhất đối với học sinh dân tộc thiểu số tại Quảng Ngãi khi bước vào môi trường học đường. Để giúp các em tự tin giao tiếp và học tập, ngành Giáo dục đang đẩy mạnh việc dạy tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em chuẩn bị vào lớp 1.

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản mà còn mở ra hướng phát triển bền vững cho bà con nông dân. Tại phường Đức Xuân, tỉnh Thái Nguyên, cây chuối tiêu - từng là loại cây ít được chú ý nay đã trở thành nguyên liệu sản xuất tinh bột kháng - một sản phẩm công nghệ cao. Mô hình nông nghiệp mới này đang giúp người dân đổi đời, tạo ra hướng đi bền vững nhờ ứng dụng khoa học.

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Tỉnh Đắk Lắk đang bước vào cao điểm của sốt xuất huyết với số ca mắc liên tục tăng. Nhiều trường hợp bệnh nhân nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk cùng chính quyền địa phương đã và đang triển khai nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Song thực tế cho thấy vẫn còn không ít khó khăn, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội.

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Mặc dù lươn không bùn dễ nuôi, nhưng tận dụng được không gian hẹp, thị trường tiêu thụ rộng mở, giá bán tương đối ổn định, nên vài năm gần đây, nhiều hộ ở thành phố Cần Thơ lựa chọn mô hình nuôi lươn không bùn để phát triển kinh tế gia đình.

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, trong 2 ngày 13-14/8, xã biên giới Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh tổ chức phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030, với khẩu hiệu hành động “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”. Đại hội có sự tham dự của 170 đại biểu đại diện cho 421 đảng viên của Đảng bộ xã.

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Các xã Hậu Mỹ, Mỹ Thành, Thạnh Phú, Tân Phước 1, Tân Phước 2,… nằm về Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, trong vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây, thiên nhiên khắt nghiệt, vào mùa mưa lũ khoảng tháng 8, tháng 9 hàng năm, nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nhấn chìm nhà cửa, đồng ruộng gây nhiều thiệt hại làm cuộc sống nhân dân cơ cực, khó khăn.

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.