Quy trình kỹ thuật nuôi cua biển công nghiệp và bán công nghiệp

Quy trình kỹ thuật nuôi cua biển công nghiệp và bán công nghiệp
Ở mô hình này cua biển được thả nuôi với mật độ thấp (khoảng 1 con/10 m2), tỷ lệ sống của cua biển theo thống kê hàng năm chỉ đạt khoảng từ 5 - 10%, chính vì vậy nên năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cua biển thương phẩm này chưa cao và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Để giúp cho người dân nuôi cua biển có thể áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và những người dân nuôi tôm sú, cá kèo công nghiệp - bán công nghiệp (CN-BCN) không hiệu quả có thể chuyển sang đối tượng nuôi mới nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của gia đình cũng như sản lượng cua biển thương phẩm chúng tôi xin giới thiệu với bà con nông dân "quy trình nuôi cua biển CN-BCN sử dụng chế phẩm sinh học 3 giai đoạn".

Cua thương phẩm - Ảnh: Nguyễn Đức Khoa
Cua thương phẩm - Ảnh: Nguyễn Đức Khoa

Chọn địa điểm nuôi: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn): Ao nuôi cua tốt nhất nên có các đặc điểm như: Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước. Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 15 cm). Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 7,5 - 8,5; độ mặn từ 10 - 30‰ và nhiệt độ từ 25 - 35oC. Ao nuôi tốt nhất nên có diện tích từ 2.000 m2 - 5.000 m2, độ sâu 1,5 - 1,8 m với bờ có chiều rộng đáy tối thiểu 4m, mặt 2 - 3 m và cao 1 - 1,5 m và cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5 m.

Cải tạo ao: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn nuôi): Sau mỗi vụ nuôi cần phải ủi hoặc nạo vét sạch bùn đáy ao, gia cố bờ ao. Trường hợp bùn ao không nhiều khoảng 10 cm, bón vôi CaO 15 - 20 kg/1000 m2, phơi đáy ao 2 - 3 ngày sau đó tiến hành bơm nước từ ao lắng vào ao nuôi (tốt nhất nên bơm nước qua túi vải lọc).

Tránh lấy nước trong các trường hợp sau: Nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh, nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm, nước có nhiều váng bọt, màng nhầy, có nhiều phù sa đen lơ lửng. Không lấy nước khi thuỷ triều đang lên, nên lấy nước khi nước bắt đầu bình để hạn chế đưa các chất phù sa lơ lửng vào ao, tốt nhất nên lấy nước vào ao lắng trước khi cấp vào ao nuôi. Sau khi bơm nước vào ao nuôi khoảng 3 - 5 ngày thì tiến hành diệt tạp.

Để diệt các loài cá tạp và giáp xác trong ao có thể sử dụng: Saponin: 15 - 20 kg/1000 m3 nước. (nếu độ mặn > 15‰), dây thuốc cá: 8 -10 kg/1000 m3 nước (nếu độ mặn < 15‰). Xung quanh bờ rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước...và đặt hơi nghiêng vào ao một góc 450, cao khoảng 80 – 100 cm sao cho cua không thoát ra được. Ao có cống cấp và thoát để cấp thoát nước cho ao, trước cống nên có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận.

Bố trí chà khô thành từng bó chiếm từ 1/3 - 2/3 diện tích ao nuôi để làm giá thể trú ẩn khi cua lột (tránh tình trạng cua ăn thịt lẫn nhau gây hao hụt). Kiểm tra các yếu tố môi trường: pH: 7,5 - 8,5, độ kiềm: 100 - 120 mg/l, độ mặn: 10‰ -30‰. Việc cải tạo và xử lý nước ban đầu là khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của ao nuôi: Tạo cho vật nuôi có được một nền đáy ao sạch, làm tăng và ổn định lượng oxy hoà tan trong nước, ổn định chất lượng nước và làm giảm các chất độc trong nước, ổn định nhiệt độ ao, hạn chế tảo sợi, tảo đáy phát triển, hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh. Khi đạt các yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Qua thời gian thử nghiệm kết quả cho thấy nuôi cua 3 giai đoạn cho kết quả tốt hơn so với mộ hình cũ tức nuôi không chia giai đoạn: Cua phát triển tốt hơn thời gian nuôi ngắn hơn, ít dịch bệnh hơn và tỷ lệ sống cao hơn.

Nuôi cua giai đoạn 1:

Là mô hình nuôi cua giống kích cỡ hạt tiêu lên đến kích cỡ mặt đồng hồ (loại từ  0,012 g/con đến  20 - 30 g/con).

Chọn giống và thả giống:

Hiện nay nguồn cua giống cung cấp cho người nuôi chủ yếu từ nguồn sản xuất giống nhân tạo nên chọn giống ở những cơ sở sản xuất cua giống có uy tín, con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ, các phụ bộ đầy đủ. Cua con khi cho vào khay phải phân bố đều, không bị dồn cục và khi đổ nước vào phải phân tán đều khay và khả năng đeo bám giá thể tốt. Khi vận chuyển cua giống nên cho vào khay nhựa loại 20 x 40 cm có lót cỏ và giá thể.

Mỗi khay nhựa 20 x 40 cm có thể vận chuyển 1000 con. Mật độ thả từ 10 - 15 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 1. Thời gian thả nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát, trước khi thả nên thuần cua thích hợp với nhiệt độ và độ mặn của ao nuôi, thả tập trung ở một khu vực, không nên thả giáp ao để dễ dàng cho ăn và theo dõi.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 1 là thức ăn công nghiệp loại sử dụng cho tôm sú có hàm lượng đạm từ 40 - 42% sử dụng thức ăn này giúp cua tăng trưởng tốt và hạn chế ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Khẩ
u phần cho 10.000 cua ăn giai đoạn I (từ 1 - 40 ngày tuổi).
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn công nghiệp
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 2,0 - 2,1 - 2,2 - 2,3 - 2,4 3 mm 02 20 g - 25 g
46 - 50 2,5 - 2,6 - 2,7 - 2,8 - 2,9 3 mm 02 26 g - 30 g
51 - 55 3,0 - 3,1 - 3,2 - 3,3 - 3,4 4 mm 02 31 g - 40 g
56 - 60 3,5 - 3,6 - 3,7 - 3,8 - 3,9 4 mm 02 41g - 50 g
61 - 65 4,0 - 4,1 - 4,2 - 4,3 - 4,4 5 mm 02 51 g - 60 g
66 - 70 4,6 - 4,7 - 4,8 - 4,9 - 5,0 5 mm 02 61 g - 70 g
Khẩu phần cho 10.000 cua ăn cá tạp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi)
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn tươi sống
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 10 - 12 - 15 - 17 - 20 Cắt nhỏ 02 20 g - 25 g
46 - 50 22 - 25 - 27 - 30 - 23 Cắt nhỏ 02 26 g - 30 g
51 - 55 25 - 27 - 30 - 32 - 35 Cắt nhỏ 02 31 g - 40 g
56 - 60 35- 36 - 37 - 38 - 39 Cắt nhỏ 02 41 g  - 50 g
61 - 65 40 - 41 - 42 - 43 - 44 Cắt nhỏ 02 51 g - 60 g
66 - 70 45- 45 - 47 - 48 - 50 Cắt nhỏ 02 61 g - 70 g

Cho ăn 2 lần /ngày lúc sáng sớm và chiều mát. Dùng sàng ăn để kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua (có thể bỏ từ 2-3% lượng thức ăn trong cử ăn vào sàng ăn và kiểm tra sàng sau 1,5 - 2 giờ). Bổ sung khoáng chất, dinh dưỡng và vitamin C, tỏi tươi với liều lượng 5 -10g/kg thức ăn để giúp cua tăng sức đề kháng và tăng trưởng tốt.

Quản lý môi trường ao nuôi: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn nuôi): Định kỳ 10 -15 ngày thay 20 - 30% lượng nước trong ao nuôi, sau 1 - 2 ngày tiến hành diệt khuẩn bằng Iodine hoặc BKC (liều lượng tùy theo từng dòng sản phẩm) sau khi diệt khuẩn 2 - 3 ngày tiến hành cấy vi sinh và bón vôi CaCO3 10 - 15 kg/1000 m3 để cải tạo đáy ao giúp tăng cường vi sinh có lợi phát triển và ổn định các yếu tố môi trường. Cua sau khi nuôi 30 - 40 ngày tuổi cua đạt trong lượng từ 20 - 30 g/con tiến hành thu cua giai đoạn 1.

Có thể thu bằng nhiều cách nhưng có 2 cách dùng phổ biến: Dùng cần câu cua vào lúc trời mát phương pháp này ít gây tổn thương cua nhưng tốn nhiều công hoặc dùng lồng bẫy đặt cua vào buổi tối, phương pháp này ít tốn công nhưng thu tập trung, số lượng nhiều nên dễ gây tổn thương cua do chúng kẹp nhau. Qua thực nghiệm nuôi cho thấy tỷ lệ sống của cua nuôi ở giai đoạn 1 dao động từ 70 -80%.

Nuôi cua giai đoạn 2: Loại từ  20 - 30 g/con lên 70 - 80 g/con

Chọn giống và thả giống: Hiện nay nguồn cua giống cung cấp nuôi giai đoạn 2 chủ yếu từ người nuôi cua giống giai đoạn I bán lại hoặc thu cua giống ở ao nuôi giai đoạn I tiếp tục sang ao thưa hơn để nuôi giai đoạn 2. Con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ. Loại cua 20 -30g vận chuyển khó hơn giai đoạn 1 nên người nuôi phải vận chuyển đúng quy cách để tránh hao hụt.

Cua thu tiến hành cho vào thùng xốp có lót cỏ và giá thể sau khi cho cua vào tiến hành dùng thảm thắm nước đè sát cố định vị trí cua tại chổ tránh chúng tấn công với nhau và vận chuyển đến nơi ao nuôi. Mỗi thùng xốp 50 x 100 cm có thể vận chuyển 100 con. Mật độ thả từ 3 - 5 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 2. Thời gian thả nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát, nên thả khắp ao để tránh cua tấn công nhau khi mới thả.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 2 có hai nguồn: Thức ăn công nghiệp loại sử dụng cho cua có hàm lượng đạm từ 38 - 40%  và thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyển thể hai mãnh vỏ…

Khẩu phần cho 10.000 cua ăn thức ăn công nghiệp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi).
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn công nghiệp
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 2,0 - 2,1 - 2,2 - 2,3 - 2,4 3 mm 02 20 g - 25 g
46 - 50 2,5 - 2,6 - 2,7 - 2,8 - 2,9 3 mm 02 26 g - 30 g
51 - 55 3,0 - 3,1 - 3,2 - 3,3 - 3,4 4 mm 02 31 g - 40 g
56 - 60 3,5 - 3,6 - 3,7 - 3,8 - 3,9 4 mm 02 41g - 50 g
61 - 65 4,0 - 4,1 - 4,2 - 4,3 - 4,4 5 mm 02 51 g - 60 g
66 - 70 4,6 - 4,7 - 4,8 - 4,9 - 5,0 5 mm 02 61 g - 70 g
Khẩu phần cho 10.000 cua ăn cá tạp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi)
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn tươi sống
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 10 - 12 - 15 - 17 - 20 Cắt nhỏ 02 20 g - 25 g
46 - 50 22 - 25 - 27 - 30 - 23 Cắt nhỏ 02 26 g - 30 g
51 - 55 25 - 27 - 30 - 32 - 35 Cắt nhỏ 02 31 g - 40 g
56 - 60 35- 36 - 37 - 38 - 39 Cắt nhỏ 02 41 g  - 50 g
61 - 65 40 - 41 - 42 - 43 - 44 Cắt nhỏ 02 51 g - 60 g
66 - 70 45- 45 - 47 - 48 - 50 Cắt nhỏ 02 61 g - 70 g
Cho ăn 2 lần/ngày lúc sáng sớm và chiều mát. Có thể áp dụng phương pháp quản lý thức ăn, quản lý môi trường và thu hoạch giống giai đoạn 1. Tỷ lệ sống qua thực nghiệm nuôi dao động từ 60 - 80%

Nuôi cua giai đoạn 3: Loại từ  70 - 80 g/con đến cua thịt:

Hiện nay, nguồn cua giống cung cấp nuôi giai đoạn 3 chủ yếu từ người nuôi cua giống giai đoạn 2 bán lại hoặc thu cua giống ở ao nuôi giai đoạn 2 tiếp tục sang ao thưa hơn để nuôi giai đoạn 3. Con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ, còn đủ các phụ bộ. Loại cua 70 g vận tương tự như vận chuyển cua giai đoạn 2. Mỗi thùng xốp 50 x 100 cm có thể vận chuyển 50 con. Mật độ thả từ 1 - 2 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 3. Nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát và thả phân bố khắp ao để tránh cua tấn công nhau khi mới thả. Một lưu ý quan trọng khi thả cua giai đoạn 3 là: Để tránh tình trạng cua bắt cặp sớm, lên gạch khi chưa đạt kích cỡ thương phẩm và cua ăn thịt lẫn nhau thì nên thả cua theo tỷ lệ 10 cua cái : 3 cua đực.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 3 là thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyển thể hai mãnh vỏ… Khẩu phần ăn cho cua giai đoạn 3 loại (70 - 80 g/con) đến cua thịt là 2 - 3% trọng lượng thân, cho ăn 1 lần /ngày lúc chiều mát. Lượng thức ăn tăng mỗi ngày, thường xuyên kiểm tra khả năng bắt mồi của cua để có chế độ tăng giảm hợp lý, có thể dùng sàng ăn kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua. Phương pháp quản lý môi trường và thu hoạch cua cũng nên tiến hành như giai đoạn 1 và 2. Năm 2013 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bạc Liêu thực hiện trình diễn tại xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải (áp dụng sang cua giai nuôi giai đoạn 3) cho thấy tỷ lệ sống ở giai đoạn 3 dao động từ 30 - 40%, năng suất đạt 100 - 150 kg/1000 m2.

Trong các mô hình nuôi trồng thủy sản thì mô hình nuôi cua biển thương phẩm được xem là loài ít bệnh tật nhất so với tôm, cá. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cua bị bệnh do một số yếu tố môi trường bất lợi như: Độ mặn và nhiệt độ quá cao làm cho cua chậm lớn và chết; độ mặn quá thấp gây ra hiện tượng cua không thể lột xác; môi trường bị ô nhiễm dẫn đến bị một số bệnh siêu vi trùng (virus) như: bệnh đốm đen, đốm nâu, đen mang, đóng rong, ký sinh trùng... Hiện nay, nghiên cứu về bệnh và biện pháp phòng trị vẫn chưa được phổ biến.

Vì vậy, để đảm bảo cho đàn cua phát triển tốt thì phương pháp phòng bệnh hữu hiệu vẫn là thường xuyên thay nước, diệt khuẩn, cấy vi sinh và vôi định kỳ để ổn định các yếu tố môi trường, cho ăn đủ về số lượng và và chất lượng bằng cách bổ sung thêm vitamin C, khoáng chất, tỏi tươi xuyên suốt quá trình nuôi để tăng cường sức đề kháng và khả năng tăng trưởng của cua biển nhằm giúp cho người nông dân đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất khi thực hiện mô hình nuôi cua biển CN-BCN 3 giai đoạn sử dụng chế phẩm sinh học.
Theo: tepbac.com

Có thể bạn quan tâm

Ổn định sinh kế trên nương đá vùng cực Bắc

Ổn định sinh kế trên nương đá vùng cực Bắc

Vào độ tháng 12, cái lạnh vùng cao bắt đầu bao trùm những dãy núi đá tai mèo ở Lũng Cú (Tuyên Quang). Trên sườn núi cheo leo, bà con các thôn, bản phấn khởi bước vào vụ thu hoạch gừng và khoai sâm. Tiếng cuốc đất, tiếng cười nói rộn ràng giữa gió rét, những củ gừng vàng ruộm, khoai sâm căng tròn lần lượt hiện ra từ khe đá, mang theo niềm vui vụ mùa và hy vọng đổi thay sinh kế cho người dân vùng cực Bắc.

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Với ý chí vươn lên và khát vọng làm giàu ngay trên mảnh đất biên cương, anh Lý Đức Dân (người dân tộc Tày, thôn Nà Toong, xã Thanh Thủy, tỉnh Tuyên Quang) đã trở thành một trong 36 thanh niên tiêu biểu được Trung ương Đoàn tuyên dương năm 2025.

Mô hình trình diễn nông nghiệp công nghệ cao vùng biên mang lại hiệu quả

Mô hình trình diễn nông nghiệp công nghệ cao vùng biên mang lại hiệu quả

Thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp Khu vực 15 (tỉnh Đồng Nai) đã tích cực triển khai xây dựng các mô hình trình diễn nông nghiệp công nghệ cao tại vùng biên. Mỗi năm, Trung tâm thực hiện từ 14-15 mô hình trình diễn, góp phần phổ biến những phương thức canh tác tiên tiến cho nhiều hộ dân.

Hiệu quả tích cực từ chuyển đổi số trong hợp tác xã

Hiệu quả tích cực từ chuyển đổi số trong hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, thời gian qua, lĩnh vực kinh tế tập thể hợp tác xã được đánh giá có nhiều chuyển biến tích cực, từng bước khẳng định vai trò trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, để nâng cao hiệu quả hoạt động, các hợp tác xã của tỉnh Cà Mau đang thực hiện nhiều giải pháp, trong đó chú trọng gắn liên kết chuỗi giá trị với chuyển đổi số.

Chú trọng giảng dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số

Chú trọng giảng dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số

Đến năm 2030, giáo dục và đào tạo tỉnh Lâm Đồng phấn đấu được đổi mới căn bản theo hướng cơ bản chuẩn hóa, hiện đại hóa; bảo đảm mọi người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận giáo dục chất lượng. Đó là mục tiêu của Chương trình “Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo cho đồng bào dân tộc Tây Nguyên” giai đoạn 2026- 2030, được Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành ngày 3/12.

'Biến' rơm thành tiền

'Biến' rơm thành tiền

Thay vì đốt bỏ rơm sau khi thu hoạch lúa như thói quen trước đây, vài năm gần đây, nông dân Đồng Tháp có thêm một khoản thu nhập từ việc bán rơm, trồng nấm rơm, sản xuất phân hữu cơ từ rơm…

Khám phá mùa su nụ trên nóc nhà miền Tây

Khám phá mùa su nụ trên nóc nhà miền Tây

Giữa không gian se lạnh, những giàn su nụ (quả su su non) xanh mướt, sum suê trái khẽ đung đưa trong nắng sớm, thu hút du khách dừng chân chụp ảnh. Không chỉ được ngắm, du khách còn có thể tự tay hái những trái su nụ rồi luộc lên thành món su su luộc chấm chao - món ăn giản dị, chuẩn vị thiên nhiên Núi Cấm níu chân những vị khách phương xa khó tính nhất.

Hàng trăm hộ dân Bạch Thông thoát nghèo nhờ thương hiệu 'Quýt Bắc Kạn'

Hàng trăm hộ dân Bạch Thông thoát nghèo nhờ thương hiệu 'Quýt Bắc Kạn'

Giữa tiết trời cuối năm, những đồi quýt trải dài ở xã Bạch Thông lại rực rỡ một màu vàng ươm của quýt chín. Với sản lượng hàng nghìn tấn mỗi năm và thương hiệu "Quýt Bắc Kạn" đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, cây quýt không chỉ là cây ăn quả truyền thống mà đã trở thành cây chủ lực, mang lại thu nhập ổn định và góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại địa phương.

Kịp thời hướng dẫn người dân vùng lũ khôi phục sản xuất nông nghiệp

Kịp thời hướng dẫn người dân vùng lũ khôi phục sản xuất nông nghiệp

Chiều 28/11, tại xã Hữu Lũng (Lạng Sơn), Trung tâm Khuyến nông quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh Lạng Sơn tổ chức Tọa đàm hướng dẫn bà con các xã vừa chịu ảnh hưởng nặng bởi thiên tai, ngập lụt như: Yên Bình, Vân Nham, Hữu Lũng, Thiện Tân, Cai Kinh những biện pháp khôi phục sản xuất nông nghiệp sau mưa lũ.

Tiếp nhận thủ tục hành chính lưu động - 'điểm sáng' trong giải quyết hành chính công

Tiếp nhận thủ tục hành chính lưu động - 'điểm sáng' trong giải quyết hành chính công

Ya Ly là một xã nằm ở phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi, được thành lập theo Nghị quyết số 1677/NQ-UBTVQH15 ngày 16/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hình thành từ việc sáp nhập các xã Ya Ly, Ya Tăng, Ya Xiêr của huyện Sa Thầy (cũ). Do địa bàn rộng, nhiều thôn, làng nằm xã trung tâm xã nên người dân gặp không ít khó khăn trong việc nộp các hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính. Vì vậy, để thuận tiện cho bà con các thôn ở xa, Ủy ban nhân dân xã Ya Ly đã triển khai thực hiện tiếp nhận hồ sơ lưu động trên địa bàn xã.

Sơn La phòng, chống đói, rét cho đàn vật nuôi

Sơn La phòng, chống đói, rét cho đàn vật nuôi

Thời gian qua, tỉnh Sơn La xuất hiện các đợt rét, khu vực vùng núi cao xảy ra rét đậm, rét hại kèm mưa. Trước tình hình đó, các địa phương trong tỉnh đã chủ động tuyên truyền, hướng dẫn người dân thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống đói, rét cho đàn vật nuôi nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại.

Truyền cảm hứng, bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho học sinh qua môn Lịch sử

Truyền cảm hứng, bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho học sinh qua môn Lịch sử

Gần hai thập kỷ gắn bó với Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Dân tộc nội trú Hà Tĩnh, cô giáo Nguyễn Thị Cẩm Tú - giáo viên môn Lịch sử - luôn kiên trì bám trường, bám lớp, không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy. Sự tận tụy, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của cô đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trở thành tấm gương điển hình tiên tiến của nhà trường. Với những đóng góp bền bỉ ấy, cô vinh dự được Thủ tướng Chính phủ trao tặng Bằng khen.

'Hồi sinh' hồ tiêu Gia Lai nhờ canh tác thuận tự nhiên

'Hồi sinh' hồ tiêu Gia Lai nhờ canh tác thuận tự nhiên

Sau nhiều năm bị ảnh hưởng nặng bởi dịch bệnh “chết nhanh, chết chậm”, ngành hồ tiêu ở Gia Lai đang dần phục hồi nhờ sự chuyển đổi mạnh mẽ sang phương thức canh tác thuận tự nhiên, trong đó người trồng ưu tiên duy trì độ phì nhiêu của đất, sử dụng chế phẩm sinh học và giảm thiểu hóa chất. Cách làm này giúp cây tiêu tăng sức đề kháng, ổn định năng suất và thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.

Trợ giúp pháp lý, nâng cao hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

Trợ giúp pháp lý, nâng cao hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số

Hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam (9/11), ngày 7/11, tại xã Yên Bình, tỉnh Lào Cai, Trung tâm Tư vấn pháp luật cho người nghèo và Phát triển cộng đồng thuộc Hội Luật gia Việt Nam tổ chức Hội nghị tập huấn và truyền thông nâng cao nhận thức về Luật hôn nhân và Gia đình cho phụ nữ, người dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai.

Đưa bản sắc văn hóa vào trường học thông qua môn Giáo dục địa phương

Đưa bản sắc văn hóa vào trường học thông qua môn Giáo dục địa phương

Thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, các trường học trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đang tăng cường triển khai môn Giáo dục địa phương, gắn nội dung dạy học với thực tiễn văn hóa, lịch sử, đời sống quê hương. Việc lồng ghép, phát huy bản sắc văn hóa trong nhà trường không chỉ làm phong phú hoạt động giáo dục mà còn góp phần bồi dưỡng tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc cho học sinh.

Xây dựng sinh kế bền vững từ nghề nuôi trâu bò vỗ béo

Xây dựng sinh kế bền vững từ nghề nuôi trâu bò vỗ béo

Sau khi hợp nhất ba xã Xuân La, An Thắng và Nghiên Loan, xã Nghiên Loan (tỉnh Thái Nguyên) được thành lập với tổng diện tích tự nhiên rộng lớn hơn 130km2 và dân số hơn 11.000 người. Việc hợp nhất này không chỉ mở ra không gian phát triển mới mà còn giúp Nghiên Loan phát huy mạnh mẽ tiềm năng trong lĩnh vực chăn nuôi gia súc.

Người phụ nữ khởi xướng phát triển các loại dược liệu cho quê hương

Người phụ nữ khởi xướng phát triển các loại dược liệu cho quê hương

Những năm trở lại đây, các sản phẩm dầu gió, tinh dầu bạc hà, tràm, quế, cao xoa thảo dược... của Hợp tác xã Nông ngư nghiệp Mỹ An do chị Nguyễn Thụy Thúy Vy (sinh năm 1992, xã Phù Mỹ Đông, tỉnh Gia Lai), khởi xướng sáng lập được người dân trong và ngoài xã coi như món quà biếu, tặng bạn bè, người thân.

Hành trình bền bỉ gieo chữ nơi biên giới Dào San

Hành trình bền bỉ gieo chữ nơi biên giới Dào San

Trong tiết trời se lạnh của vùng cao Dào San (tỉnh Lai Châu), tiếng đọc bài của học trò vang đều trong lớp học nhỏ. Cô Trần Thị Thao, giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học Dào San nhẹ nhàng chỉnh lại chiếc máy tính giúp học trò vùng biên biết đến Tin học.

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Kinh tế tập thể tạo trụ đỡ cho nông nghiệp xanh

Với hơn 500 hợp tác xã và hàng nghìn tổ hợp tác đang hoạt động, khu vực kinh tế tập thể ở Vĩnh Long đang chuyển mình mạnh mẽ, trở thành điểm tựa vững chắc cho nông nghiệp bền vững. Từ những mô hình sản xuất hữu cơ, trồng xen đến liên kết “4 nhà”, kinh tế hợp tác không chỉ giúp nông dân nâng cao thu nhập mà còn tạo nền tảng cho nông nghiệp xanh - hiện đại, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

'Vương quốc' cây ăn trái Đồng Tháp tạo chỗ đứng vững chắc

Sau khi hợp nhất địa giới, Đồng Tháp không chỉ mở rộng về quy mô diện tích, dân số mà còn gia tăng đáng kể lợi thế về phát triển nông nghiệp, nhất là hình thành các vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản gắn với chế biến và tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu.

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Triển khai truyền thông hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ

Ngày 10/10, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai tổ chức Chương trình triển khai hoạt động truyền thông, hướng dẫn khôi phục sản xuất sau mưa lũ tại tỉnh Lào Cai.

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình nuôi dúi cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Mô hình chăn nuôi dúi của anh Đinh Tiến Hoàng, Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ tổng hợp Hoàng Phát - HB, xóm Cang 3, phường Tân Hòa, tỉnh Phú Thọ, đang đem lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững, cho thu lời hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Liên kết trồng chanh không hạt, nông dân lãi nửa tỷ đồng mỗi ha

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức do sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và biến động thị trường ngày càng phức tạp, nhiều mô hình liên kết hợp tác trong sản xuất – tiêu thụ tại tỉnh Vĩnh Long chứng minh tính hiệu quả bền vững.

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Nông dân tỷ phú với mô hình kết hợp 'nuôi - trồng'

Năm 2025, thành phố Cần Thơ có 3 nông dân được Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là nông dân xuất sắc Việt Nam, trong đó có ông Trần Hồng Quan, ấp Trường Hiệp, xã Trường Long Tây. Với mô hình phát triển kinh tế - nuôi ba ba kết hợp trồng sầu riêng và lúa, nông dân Trần Hồng Quan thu lợi nhuận tiền tỷ mỗi năm.