Quy trình kỹ thuật nuôi cua biển công nghiệp và bán công nghiệp

Quy trình kỹ thuật nuôi cua biển công nghiệp và bán công nghiệp
Ở mô hình này cua biển được thả nuôi với mật độ thấp (khoảng 1 con/10 m2), tỷ lệ sống của cua biển theo thống kê hàng năm chỉ đạt khoảng từ 5 - 10%, chính vì vậy nên năng suất và hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cua biển thương phẩm này chưa cao và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Để giúp cho người dân nuôi cua biển có thể áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và những người dân nuôi tôm sú, cá kèo công nghiệp - bán công nghiệp (CN-BCN) không hiệu quả có thể chuyển sang đối tượng nuôi mới nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của gia đình cũng như sản lượng cua biển thương phẩm chúng tôi xin giới thiệu với bà con nông dân "quy trình nuôi cua biển CN-BCN sử dụng chế phẩm sinh học 3 giai đoạn".

Cua thương phẩm - Ảnh: Nguyễn Đức Khoa
Cua thương phẩm - Ảnh: Nguyễn Đức Khoa

Chọn địa điểm nuôi: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn): Ao nuôi cua tốt nhất nên có các đặc điểm như: Gần sông, có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước. Nền đáy ao, đầm nên là loại đất thịt pha sét hay cát, không quá nhiều bùn nhão (lớp bùn không quá 15 cm). Đất và nước ít bị nhiễm phèn, pH nước từ 7,5 - 8,5; độ mặn từ 10 - 30‰ và nhiệt độ từ 25 - 35oC. Ao nuôi tốt nhất nên có diện tích từ 2.000 m2 - 5.000 m2, độ sâu 1,5 - 1,8 m với bờ có chiều rộng đáy tối thiểu 4m, mặt 2 - 3 m và cao 1 - 1,5 m và cao hơn mức triều cường ít nhất 0,5 m.

Cải tạo ao: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn nuôi): Sau mỗi vụ nuôi cần phải ủi hoặc nạo vét sạch bùn đáy ao, gia cố bờ ao. Trường hợp bùn ao không nhiều khoảng 10 cm, bón vôi CaO 15 - 20 kg/1000 m2, phơi đáy ao 2 - 3 ngày sau đó tiến hành bơm nước từ ao lắng vào ao nuôi (tốt nhất nên bơm nước qua túi vải lọc).

Tránh lấy nước trong các trường hợp sau: Nguồn nước nằm trong vùng có dịch bệnh, nước có hiện tượng phát sáng vào ban đêm, nước có nhiều váng bọt, màng nhầy, có nhiều phù sa đen lơ lửng. Không lấy nước khi thuỷ triều đang lên, nên lấy nước khi nước bắt đầu bình để hạn chế đưa các chất phù sa lơ lửng vào ao, tốt nhất nên lấy nước vào ao lắng trước khi cấp vào ao nuôi. Sau khi bơm nước vào ao nuôi khoảng 3 - 5 ngày thì tiến hành diệt tạp.

Để diệt các loài cá tạp và giáp xác trong ao có thể sử dụng: Saponin: 15 - 20 kg/1000 m3 nước. (nếu độ mặn > 15‰), dây thuốc cá: 8 -10 kg/1000 m3 nước (nếu độ mặn < 15‰). Xung quanh bờ rào kỹ bằng đăng tre, tấm nhựa, lưới cước...và đặt hơi nghiêng vào ao một góc 450, cao khoảng 80 – 100 cm sao cho cua không thoát ra được. Ao có cống cấp và thoát để cấp thoát nước cho ao, trước cống nên có 2 lớp đăng hay lưới chắn cẩn thận.

Bố trí chà khô thành từng bó chiếm từ 1/3 - 2/3 diện tích ao nuôi để làm giá thể trú ẩn khi cua lột (tránh tình trạng cua ăn thịt lẫn nhau gây hao hụt). Kiểm tra các yếu tố môi trường: pH: 7,5 - 8,5, độ kiềm: 100 - 120 mg/l, độ mặn: 10‰ -30‰. Việc cải tạo và xử lý nước ban đầu là khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của ao nuôi: Tạo cho vật nuôi có được một nền đáy ao sạch, làm tăng và ổn định lượng oxy hoà tan trong nước, ổn định chất lượng nước và làm giảm các chất độc trong nước, ổn định nhiệt độ ao, hạn chế tảo sợi, tảo đáy phát triển, hạn chế các loại vi khuẩn gây bệnh. Khi đạt các yêu cầu thì tiến hành thả giống.

Qua thời gian thử nghiệm kết quả cho thấy nuôi cua 3 giai đoạn cho kết quả tốt hơn so với mộ hình cũ tức nuôi không chia giai đoạn: Cua phát triển tốt hơn thời gian nuôi ngắn hơn, ít dịch bệnh hơn và tỷ lệ sống cao hơn.

Nuôi cua giai đoạn 1:

Là mô hình nuôi cua giống kích cỡ hạt tiêu lên đến kích cỡ mặt đồng hồ (loại từ  0,012 g/con đến  20 - 30 g/con).

Chọn giống và thả giống:

Hiện nay nguồn cua giống cung cấp cho người nuôi chủ yếu từ nguồn sản xuất giống nhân tạo nên chọn giống ở những cơ sở sản xuất cua giống có uy tín, con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ, các phụ bộ đầy đủ. Cua con khi cho vào khay phải phân bố đều, không bị dồn cục và khi đổ nước vào phải phân tán đều khay và khả năng đeo bám giá thể tốt. Khi vận chuyển cua giống nên cho vào khay nhựa loại 20 x 40 cm có lót cỏ và giá thể.

Mỗi khay nhựa 20 x 40 cm có thể vận chuyển 1000 con. Mật độ thả từ 10 - 15 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 1. Thời gian thả nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát, trước khi thả nên thuần cua thích hợp với nhiệt độ và độ mặn của ao nuôi, thả tập trung ở một khu vực, không nên thả giáp ao để dễ dàng cho ăn và theo dõi.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 1 là thức ăn công nghiệp loại sử dụng cho tôm sú có hàm lượng đạm từ 40 - 42% sử dụng thức ăn này giúp cua tăng trưởng tốt và hạn chế ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Khẩ
u phần cho 10.000 cua ăn giai đoạn I (từ 1 - 40 ngày tuổi).
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn công nghiệp
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 2,0 - 2,1 - 2,2 - 2,3 - 2,4 3 mm 02 20 g - 25 g
46 - 50 2,5 - 2,6 - 2,7 - 2,8 - 2,9 3 mm 02 26 g - 30 g
51 - 55 3,0 - 3,1 - 3,2 - 3,3 - 3,4 4 mm 02 31 g - 40 g
56 - 60 3,5 - 3,6 - 3,7 - 3,8 - 3,9 4 mm 02 41g - 50 g
61 - 65 4,0 - 4,1 - 4,2 - 4,3 - 4,4 5 mm 02 51 g - 60 g
66 - 70 4,6 - 4,7 - 4,8 - 4,9 - 5,0 5 mm 02 61 g - 70 g
Khẩu phần cho 10.000 cua ăn cá tạp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi)
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn tươi sống
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 10 - 12 - 15 - 17 - 20 Cắt nhỏ 02 20 g - 25 g
46 - 50 22 - 25 - 27 - 30 - 23 Cắt nhỏ 02 26 g - 30 g
51 - 55 25 - 27 - 30 - 32 - 35 Cắt nhỏ 02 31 g - 40 g
56 - 60 35- 36 - 37 - 38 - 39 Cắt nhỏ 02 41 g  - 50 g
61 - 65 40 - 41 - 42 - 43 - 44 Cắt nhỏ 02 51 g - 60 g
66 - 70 45- 45 - 47 - 48 - 50 Cắt nhỏ 02 61 g - 70 g

Cho ăn 2 lần /ngày lúc sáng sớm và chiều mát. Dùng sàng ăn để kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua (có thể bỏ từ 2-3% lượng thức ăn trong cử ăn vào sàng ăn và kiểm tra sàng sau 1,5 - 2 giờ). Bổ sung khoáng chất, dinh dưỡng và vitamin C, tỏi tươi với liều lượng 5 -10g/kg thức ăn để giúp cua tăng sức đề kháng và tăng trưởng tốt.

Quản lý môi trường ao nuôi: (áp dụng cho cả 3 giai đoạn nuôi): Định kỳ 10 -15 ngày thay 20 - 30% lượng nước trong ao nuôi, sau 1 - 2 ngày tiến hành diệt khuẩn bằng Iodine hoặc BKC (liều lượng tùy theo từng dòng sản phẩm) sau khi diệt khuẩn 2 - 3 ngày tiến hành cấy vi sinh và bón vôi CaCO3 10 - 15 kg/1000 m3 để cải tạo đáy ao giúp tăng cường vi sinh có lợi phát triển và ổn định các yếu tố môi trường. Cua sau khi nuôi 30 - 40 ngày tuổi cua đạt trong lượng từ 20 - 30 g/con tiến hành thu cua giai đoạn 1.

Có thể thu bằng nhiều cách nhưng có 2 cách dùng phổ biến: Dùng cần câu cua vào lúc trời mát phương pháp này ít gây tổn thương cua nhưng tốn nhiều công hoặc dùng lồng bẫy đặt cua vào buổi tối, phương pháp này ít tốn công nhưng thu tập trung, số lượng nhiều nên dễ gây tổn thương cua do chúng kẹp nhau. Qua thực nghiệm nuôi cho thấy tỷ lệ sống của cua nuôi ở giai đoạn 1 dao động từ 70 -80%.

Nuôi cua giai đoạn 2: Loại từ  20 - 30 g/con lên 70 - 80 g/con

Chọn giống và thả giống: Hiện nay nguồn cua giống cung cấp nuôi giai đoạn 2 chủ yếu từ người nuôi cua giống giai đoạn I bán lại hoặc thu cua giống ở ao nuôi giai đoạn I tiếp tục sang ao thưa hơn để nuôi giai đoạn 2. Con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ. Loại cua 20 -30g vận chuyển khó hơn giai đoạn 1 nên người nuôi phải vận chuyển đúng quy cách để tránh hao hụt.

Cua thu tiến hành cho vào thùng xốp có lót cỏ và giá thể sau khi cho cua vào tiến hành dùng thảm thắm nước đè sát cố định vị trí cua tại chổ tránh chúng tấn công với nhau và vận chuyển đến nơi ao nuôi. Mỗi thùng xốp 50 x 100 cm có thể vận chuyển 100 con. Mật độ thả từ 3 - 5 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 2. Thời gian thả nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát, nên thả khắp ao để tránh cua tấn công nhau khi mới thả.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 2 có hai nguồn: Thức ăn công nghiệp loại sử dụng cho cua có hàm lượng đạm từ 38 - 40%  và thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyển thể hai mãnh vỏ…

Khẩu phần cho 10.000 cua ăn thức ăn công nghiệp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi).
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn công nghiệp
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 2,0 - 2,1 - 2,2 - 2,3 - 2,4 3 mm 02 20 g - 25 g
46 - 50 2,5 - 2,6 - 2,7 - 2,8 - 2,9 3 mm 02 26 g - 30 g
51 - 55 3,0 - 3,1 - 3,2 - 3,3 - 3,4 4 mm 02 31 g - 40 g
56 - 60 3,5 - 3,6 - 3,7 - 3,8 - 3,9 4 mm 02 41g - 50 g
61 - 65 4,0 - 4,1 - 4,2 - 4,3 - 4,4 5 mm 02 51 g - 60 g
66 - 70 4,6 - 4,7 - 4,8 - 4,9 - 5,0 5 mm 02 61 g - 70 g
Khẩu phần cho 10.000 cua ăn cá tạp giai đoạn II (từ 40 - 70 ngày tuổi)
 
Ngày tuổi Lượng thức ăn tươi sống
trong ngày (kg)
Kích cở Số lần/ ngày Trọng lượng cua
40 - 45 10 - 12 - 15 - 17 - 20 Cắt nhỏ 02 20 g - 25 g
46 - 50 22 - 25 - 27 - 30 - 23 Cắt nhỏ 02 26 g - 30 g
51 - 55 25 - 27 - 30 - 32 - 35 Cắt nhỏ 02 31 g - 40 g
56 - 60 35- 36 - 37 - 38 - 39 Cắt nhỏ 02 41 g  - 50 g
61 - 65 40 - 41 - 42 - 43 - 44 Cắt nhỏ 02 51 g - 60 g
66 - 70 45- 45 - 47 - 48 - 50 Cắt nhỏ 02 61 g - 70 g
Cho ăn 2 lần/ngày lúc sáng sớm và chiều mát. Có thể áp dụng phương pháp quản lý thức ăn, quản lý môi trường và thu hoạch giống giai đoạn 1. Tỷ lệ sống qua thực nghiệm nuôi dao động từ 60 - 80%

Nuôi cua giai đoạn 3: Loại từ  70 - 80 g/con đến cua thịt:

Hiện nay, nguồn cua giống cung cấp nuôi giai đoạn 3 chủ yếu từ người nuôi cua giống giai đoạn 2 bán lại hoặc thu cua giống ở ao nuôi giai đoạn 2 tiếp tục sang ao thưa hơn để nuôi giai đoạn 3. Con giống phải đồng cỡ, đồng màu, có phản ứng nhanh lẹ, còn đủ các phụ bộ. Loại cua 70 g vận tương tự như vận chuyển cua giai đoạn 2. Mỗi thùng xốp 50 x 100 cm có thể vận chuyển 50 con. Mật độ thả từ 1 - 2 con/m2 đối với nuôi cua giai đoạn 3. Nên tiến hành thả giống lúc sáng sớm hoặc chiều mát và thả phân bố khắp ao để tránh cua tấn công nhau khi mới thả. Một lưu ý quan trọng khi thả cua giai đoạn 3 là: Để tránh tình trạng cua bắt cặp sớm, lên gạch khi chưa đạt kích cỡ thương phẩm và cua ăn thịt lẫn nhau thì nên thả cua theo tỷ lệ 10 cua cái : 3 cua đực.

Chăm sóc quản lý: Phương pháp cho ăn: Thức ăn cho cua giai đoạn 3 là thức ăn tươi sống như cá tạp, nhuyển thể hai mãnh vỏ… Khẩu phần ăn cho cua giai đoạn 3 loại (70 - 80 g/con) đến cua thịt là 2 - 3% trọng lượng thân, cho ăn 1 lần /ngày lúc chiều mát. Lượng thức ăn tăng mỗi ngày, thường xuyên kiểm tra khả năng bắt mồi của cua để có chế độ tăng giảm hợp lý, có thể dùng sàng ăn kiểm tra khả năng bắt mồi và sức khỏe cua. Phương pháp quản lý môi trường và thu hoạch cua cũng nên tiến hành như giai đoạn 1 và 2. Năm 2013 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Bạc Liêu thực hiện trình diễn tại xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải (áp dụng sang cua giai nuôi giai đoạn 3) cho thấy tỷ lệ sống ở giai đoạn 3 dao động từ 30 - 40%, năng suất đạt 100 - 150 kg/1000 m2.

Trong các mô hình nuôi trồng thủy sản thì mô hình nuôi cua biển thương phẩm được xem là loài ít bệnh tật nhất so với tôm, cá. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cua bị bệnh do một số yếu tố môi trường bất lợi như: Độ mặn và nhiệt độ quá cao làm cho cua chậm lớn và chết; độ mặn quá thấp gây ra hiện tượng cua không thể lột xác; môi trường bị ô nhiễm dẫn đến bị một số bệnh siêu vi trùng (virus) như: bệnh đốm đen, đốm nâu, đen mang, đóng rong, ký sinh trùng... Hiện nay, nghiên cứu về bệnh và biện pháp phòng trị vẫn chưa được phổ biến.

Vì vậy, để đảm bảo cho đàn cua phát triển tốt thì phương pháp phòng bệnh hữu hiệu vẫn là thường xuyên thay nước, diệt khuẩn, cấy vi sinh và vôi định kỳ để ổn định các yếu tố môi trường, cho ăn đủ về số lượng và và chất lượng bằng cách bổ sung thêm vitamin C, khoáng chất, tỏi tươi xuyên suốt quá trình nuôi để tăng cường sức đề kháng và khả năng tăng trưởng của cua biển nhằm giúp cho người nông dân đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất khi thực hiện mô hình nuôi cua biển CN-BCN 3 giai đoạn sử dụng chế phẩm sinh học.
Theo: tepbac.com

Có thể bạn quan tâm

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Nuôi cá lồng bè - giải pháp sinh kế trong biến đổi khí hậu

Tận dụng diện tích mặt nước rộng, hệ sinh thái thuận lợi của lòng hồ thủy điện An Khê - Kanak, nhiều hộ dân tại xã Cửu An, tỉnh Gia Lai đã phát triển mô hình nuôi cá lồng bè. Mô hình này không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi bền vững cho kinh tế địa phương.

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Cách xử trí và phòng tránh ong đốt

Bệnh viện Nhi tỉnh Gia Lai mới đây đã tiếp nhận 3 bệnh nhi cấp cứu do bị ong vò vẽ đốt, trong đó 1 bé đã tử vong. Vụ việc khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Trên thực tế, ong đốt là tai nạn thường gặp và sau đây là một số bước sơ cứu để tránh sốc phản vệ, nhiễm trùng.

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Nông dân thu tiền tỷ từ vườn dừa cấy phôi

Những năm gần đây, Trường Đại học Trà Vinh có nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được chuyển giao, ứng dụng vào thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, giúp nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nâng cao hiệu quả sản xuất.

Thầy Danh Mến, giáo viên Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ, đứng lớp bồi dưỡng tiếng Khmer cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng TP. Cần Thơ, với sự hỗ trợ của màn hình LED hiện đại

Ứng dụng chuyển đổi số trong giảng dạy tại Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ

Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ (thành phố Cần Thơ) đang tích cực chuyển đổi số, đổi mới phương pháp giảng dạy và quản lý đào tạo thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà trường đã kết hợp kho học liệu điện tử hiện đại với giáo trình giấy truyền thống, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tăng sinh và học viên, đồng thời phát huy ngôn ngữ Pali - Khmer trong bối cảnh chuyển đổi số.

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

'Giấy thông hành' để chanh leo phát triển bền vững

Chất lượng chính là mẫu số chung trong mọi giải pháp phát triển chanh leo. Từ giống cây, quy trình canh tác, thu hoạch, chế biến đến xuất khẩu - mỗi khâu đều đòi hỏi tiêu chuẩn cao, minh bạch và đồng bộ.

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Đồng bào vùng cao thoát nghèo nhờ cây gừng

Từ những luống gừng xanh tốt trên cao nguyên đá nơi địa đầu Tổ quốc, đồng bào Mông và Giáy ở Lũng Cú (tỉnh Tuyên Quang) đã mạnh dạn thay thế cây ngô kém hiệu quả, biến cây trồng quanh nhà thành cây kinh tế mũi nhọn, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Cây gừng bản địa không chỉ mở ra hướng thoát nghèo bền vững cho đồng bào vùng cao mà còn từng bước xây dựng thương hiệu, hướng tới sản xuất bền vững, gia tăng giá trị.

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

'Đa canh' làm giàu trên mảnh đất vùng biên

Tại vùng biên tỉnh Đồng Nai, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã thay đổi lối mòn canh tác cũ để làm giàu bền vững không chỉ trồng một loại cây mà là đa canh. Nhiều hộ đã kiên trì, dám thay đổi tận dụng khoa học kỹ thuật làm giàu trên chính mảnh đất của mình, biến những khó khăn thành cơ hội phát triển bền vững.

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Mở hướng kinh tế mới với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn

Từ một thanh niên đam mê thủy sản và không ngừng học hỏi, anh Nguyễn Phúc Mến (sinh năm 1987, ngụ phường Bình Minh, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành một trong những người tiên phong và thành công với mô hình nuôi cá chạch lấu trong bể nổi tuần hoàn, có quy mô lớn tại địa phương. Mô hình này không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn mở ra hướng đi mới cho ngành nông nghiệp ở Tây Ninh.

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Vùng ngọt hóa Gò Công trồng rau an toàn, thu lãi gấp 7 lần lúa

Theo khảo sát của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, trồng rau màu thích ứng biến đổi khí hậu vùng ngọt hóa Gò Công lợi nhuận cao gấp 2 đến 7 lần so với trồng lúa, tùy theo loại rau màu. Cao nhất là rau ăn lá cho lợi nhuận bình quân trên 450 triệu đồng/năm, cao gấp 7 lần thu nhập từ cây lúa. Nhờ vậy, nông dân sống khỏe, tạo dựng cơ nghiệp bền vững, không còn lo thiên tai như trước.

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Cây sầu riêng - hiện thực hóa giấc mơ thoát nghèo

Các xã vùng núi Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa) từng có thời gian dài nằm trong diện nghèo nhất cả nước. Nhưng hiện nay, vùng đất này đang “thay da đổi thịt” nhờ lựa chọn đúng cây trồng “hái ra tiền” - sầu riêng.

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Đa dạng hoạt động tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số

Với 43 dân tộc cùng sinh sống, rào cản ngôn ngữ là thách thức lớn nhất đối với học sinh dân tộc thiểu số tại Quảng Ngãi khi bước vào môi trường học đường. Để giúp các em tự tin giao tiếp và học tập, ngành Giáo dục đang đẩy mạnh việc dạy tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em chuẩn bị vào lớp 1.

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ giúp nông dân đổi đời từ chuối tiêu

Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản mà còn mở ra hướng phát triển bền vững cho bà con nông dân. Tại phường Đức Xuân, tỉnh Thái Nguyên, cây chuối tiêu - từng là loại cây ít được chú ý nay đã trở thành nguyên liệu sản xuất tinh bột kháng - một sản phẩm công nghệ cao. Mô hình nông nghiệp mới này đang giúp người dân đổi đời, tạo ra hướng đi bền vững nhờ ứng dụng khoa học.

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Phòng, chống sốt xuất huyết: Cần sự chung tay của người dân, cộng đồng

Tỉnh Đắk Lắk đang bước vào cao điểm của sốt xuất huyết với số ca mắc liên tục tăng. Nhiều trường hợp bệnh nhân nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk cùng chính quyền địa phương đã và đang triển khai nhiều biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Song thực tế cho thấy vẫn còn không ít khó khăn, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội.

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Kinh nghiệm nuôi lươn không bùn mang lại hiệu quả kinh tế cao

Mặc dù lươn không bùn dễ nuôi, nhưng tận dụng được không gian hẹp, thị trường tiêu thụ rộng mở, giá bán tương đối ổn định, nên vài năm gần đây, nhiều hộ ở thành phố Cần Thơ lựa chọn mô hình nuôi lươn không bùn để phát triển kinh tế gia đình.

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Thắt chặt quan hệ hợp tác Việt Nam - Campuchia tại các xã biên giới

Hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, trong 2 ngày 13-14/8, xã biên giới Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh tổ chức phiên chính thức Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030, với khẩu hiệu hành động “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”. Đại hội có sự tham dự của 170 đại biểu đại diện cho 421 đảng viên của Đảng bộ xã.

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Chuyển đổi sản xuất 'thuận thiên' tạo đột phá kinh tế vùng ngập lũ

Các xã Hậu Mỹ, Mỹ Thành, Thạnh Phú, Tân Phước 1, Tân Phước 2,… nằm về Tây Bắc tỉnh Đồng Tháp, trong vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây, thiên nhiên khắt nghiệt, vào mùa mưa lũ khoảng tháng 8, tháng 9 hàng năm, nước từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về nhấn chìm nhà cửa, đồng ruộng gây nhiều thiệt hại làm cuộc sống nhân dân cơ cực, khó khăn.

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Độc đáo mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu

Tận dụng những lợi thế sẵn có ở địa phương, Hợp tác xã Mý Dao, xã Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã phát triển mô hình nuôi ngựa bạch bằng dược liệu. Cách làm độc đáo này đang mở ra hướng phát triển kinh mới khi cho ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn sinh học, giá trị kinh tế cao.

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.