Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer

Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn
Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn

Trà Vinh là tỉnh có đông đồng bào Khmer, với hơn 390.000 người, chiếm trên 31% dân số toàn tỉnh. Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, nhiều năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Trà Vinh luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer.

Xây dựng nơi bảo tồn về các giá trị di sản văn hóa

Năm 1992, ngay khi được tái thành lập, Tỉnh ủy Trà Vinh đã đề ra Nghị quyết số 01-NQ/TU về chương trình phát triển toàn diện vùng đồng vào dân tộc Khmer trong tỉnh. Theo đó, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã thực hiện nhiều hoạt động, tranh thủ sự hỗ trợ nguồn lực từ Trung ương, ngân sách tỉnh cùng nguồn vốn hợp pháp khác tập trung đầu tư hàng ngàn công trình, dự án…nhằm nâng cao cuộc sống và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer.

Ông Dương Hoàng Sum, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh cho biết, song song với việc quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí, tỉnh chú trọng bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của đồng bào Khmer. Cụ thể, năm 1995, tỉnh xây dựng Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh. Đây là Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer đầu tiên ở Đồng bằng sông Cửu Long được đưa vào hoạt động lúc bấy giờ.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 1Một số hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Văn hóa Dân tộc Trà Vinh. Nguồn: travinh.gov.vn

Đến nay, Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh đã sưu tầm, hệ thống hóa và trưng bày khoảng trên 1.000 hiện vật thể hiện rõ nét đời sống văn hóa, lao động sản xuất, tín ngưỡng tâm linh, phong tục tập quán của đồng bào... Hiện, toàn tỉnh có 40 di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh được công nhận là các cơ sở thờ tự. Riêng lễ hội Ok-Om-Bok do Trà Vinh tổ chức hàng năm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Đặc biệt, Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh hiện lưu giữ một bảo vật quốc gia được công nhận vào năm 2016. Đó là ngẫu tượng Linga - Yoni (tượng trưng cho bộ phận sinh thực khí Nam - Nữ) chất liệu bằng đá thủy tinh trong suốt (Crystal rock). Bảo vật này được các nhà khảo cổ học thuộc Viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện trong quá trình khai quật di chỉ khảo cổ học Lưu Cừ II, xã Lưu Nghiệp Anh, huyện Trà Cú vào năm 1986.

Bà Sơn Thị Hiền, viên chức Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh bày tỏ sự tự hào mỗi khi được hướng dẫn, thuyết minh cho khách đến tham quan, tìm hiểu hiện vật, nét độc đáo về văn hóa của dân tộc Khmer Trà Vinh nói riêng và đồng bào Khmer Nam Bộ nói chung.

Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh thường đón nhiều khách tham quan vào các dịp lễ, Tết và ngày nghỉ cuối tuần… Những ngày bình thường, Bảo tàng tiếp đón khoảng 100 khách/ngày. Ngoài khách du lịch, Bảo tàng đón nhiều nhất là đoàn học sinh đến từ các trường dân tộc nội trú, khách nước ngoài tới tìm hiểu, nghiên cứu về văn hóa dân tộc Khmer.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 2Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh được khánh thành vào năm 1995, lưu giữ rất nhiều hiện vật phong phú về đời sống văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất của đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn: travinh.gov.vn

Những tháng cuối năm 2022, Bảo tàng sẽ hoàn chỉnh thêm hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Đom Lơng Néak Tà của dân tộc Khmer để trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thẩm định đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó, đơn vị xây dựng dự toán, kế hoạch, tờ trình xin chủ trương xây dựng hồ sơ văn hóa phi vật thể về nghề dệt chiếu Cà Hom - Bến Bạ của đồng bào Khmer tại xã Hàm Tân, huyện Trà Cú để đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia trong năm 2023.

Bảo tồn chữ viết và nâng cao nguồn nhân lực

Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer, nhiều năm qua, Trà Vinh không ngừng đầu tư về cơ sở vật chất, triển khai hiệu quả việc giảng dạy, học tập chữ Khmer cho con em đồng bào trong tỉnh.

Ông Thạch Mu Ni, Phó trưởng ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh cho biết, toàn tỉnh có 8 trường dân tộc nội trú cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, với khoảng 3.000 học sinh theo học mỗi năm. Trên địa bàn tỉnh có 143 chùa Phật giáo Nam tông Khmer đều tổ chức giảng dạy chữ Khmer tại điểm chùa. Đây là hoạt động thường niên luôn nhận được sự ủng hộ, khuyến khích từ chính quyền địa phương và Phật tử, trở thành phong trào học tập mạnh mẽ, góp phần quan trọng gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa, tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer.

Trà Vinh gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer ảnh 3Lớp học tiếng Khmer ở chùa Âng (phường 8, TP Trà Vinh). Nguồn: thoidai.com.vn

Đưa tiếng Khmer vào giảng dạy tại một số trường phổ thông, tại điểm chùa giúp con, em đồng bào hình thành, phát triển kỹ năng sử dụng chữ Khmer, mở rộng hiểu biết về văn hóa dân tộc của mình, bồi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc, nâng cao ý thức tự hào công dân Việt Nam.

Cùng với việc dạy chữ Khmer ở các trường phổ thông, Trà Vinh là tỉnh duy nhất trong cả nước đào tạo ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật Khmer ở bậc đại học tại Trường Đại học Trà Vinh.

Hơn 10 năm nay, Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ của Trường Đại học Trà Vinh đào tạo đa ngành, đa cấp, cung cấp nguồn nhân lực dân tộc Khmer trí thức cho tỉnh, ở Nam Bộ cũng như cả nước.

Sinh viên sau khi tốt nghiệp có nhiều cơ hội việc làm như làm phiên dịch viên, công tác trong cơ quan Nhà nước, công ty của Việt Nam đang hoạt động tại Campuchia… Ngoài miễn học phí, sinh viên còn được hỗ trợ sinh hoạt phí…

Cùng với đào tạo ngôn ngữ, văn hóa, nghệ thuật Khmer ở bậc đại học, năm 2014, Trà Vinh thành lập Trường Trung cấp Pali Khmer. Đây trường nội trú với các chế độ chính sách tương tự các trường dân tộc nội trú hiện hành. Ngôi trường đặc thù này dành cho tăng sinh (chủ yếu theo hệ phái Nam tông Khmer) được đào tạo tổng hợp chương trình giáo dục thường xuyên, tiếng Pali, Ngữ văn Khmer và giáo lý Phật giáo.

Thầy Lâm So Rone, Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Pali Khmer cho biết, việc thành lập trường là nguyện vọng lớn nhất của các vị cao tăng, các vị lão thành cách mạng người Khmer trên địa bàn tỉnh. Bởi tăng sinh, sinh viên khi có bằng Trung cấp Pali Khmer sẽ đủ điều kiện học tiếp lên cao đẳng, đại học. Đến nay, Trường Trung cấp Pali Khmer Trà Vinh đã đào tạo được 6 khóa với 176 tăng sinh; trong đó, có 75 vị tiếp tục học lên cao đẳng, đại học và 20 vị làm trụ trì, phó trụ trì các chùa Khmer trong tỉnh. Một số vị hoàn tục đi làm việc ở nước ngoài. Từ ngôi trường này, các vị sư có mong muốn học tập nâng cao hơn nữa sẽ đủ điều kiện để du học lên Tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ, Sri Lanka...

Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Văn Hẳn cho biết, tỉnh đang thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn. Trong giai đoạn I (2022-2025), tỉnh thực hiện 10 dự án, với tổng kinh phí đầu tư trên 1.711 tỷ đồng; trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ hơn 1.124 tỷ đồng.

Năm 2022, tỉnh bố trí hơn 400 tỷ đồng từ nguồn vốn Trung ương, ngân sách địa phương, vốn vay tín dụng chính sách và vốn huy động hợp pháp khác tập trung đầu tư vào các dự án thiết yếu phục vụ dân sinh. Trong đó, tỉnh ưu tiên bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào Khmer; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer của tỉnh.

Phúc Sơn

(TTXVN)
Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày hội văn hoá Mông tại Hà Nội

Ngày 13/12/2025, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) diễn ra Ngày hội văn hoá Mông 2025. Sự kiện do doanh nghiệp Xã hội CRAFT LINK tổ chức quy tụ 8 nhóm Mông đến từ Cao Bằng, Lào Cai, Tuyên Quang, Điện Biên, Phú Thọ, Nghệ An với những trưng bày đặc sắc về trang phục, hoa văn và nghề thủ công truyền thống, nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa, nghề thủ công truyền thống và đời sống tinh thần phong phú của cộng đồng người Mông trên cả nước.

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Dệt văn hóa Thái trên những khung cửi Pù Luông

Nằm trong vùng lõi của Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, làng nghề dệt thổ cẩm thôn Lặn Ngoài (xã Pù Luông, tỉnh Thanh Hóa) đang trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch quốc tế bởi những câu chuyện văn hóa qua từng khung cửi. Ở đó, bên nếp nhà sàn, những người phụ nữ dân tộc Thái mỗi ngày cần mẫn đưa thoi, dệt nên những nét hoa văn đặc trưng của núi rừng Pù Luông.

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Đồng bào Si La tưng bừng đón Lễ hội mừng cơm mới

Ngày 12/12, UBND xã Mường Nhé (tỉnh Điện Biên) tổ chức Lễ công bố quyết định và đón nhận Giấy chứng nhận Di sản văn hóa Phi vật thể quốc gia “Lễ mừng cơm mới của người Si La” và tổ chức Lễ hội mừng cơm mới năm 2025 tại bản Nậm Sin.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”.

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực Miền núi phía Bắc lần thứ 24

Ngày 12/12, UBND tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức Lễ Tổng kết, trao giải và khai mạc triển lãm Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực miền núi phía Bắc lần thứ 24 với chủ đề “Vẻ đẹp đất nước - con người miền núi phía Bắc”

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Liên hoan câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng

Tối 11/12, tại nhà truyền thống tổ dân phố N’Jriêng (phường Đông Gia Nghĩa), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức khai mạc Liên hoan các câu lạc bộ cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất, năm 2025 với chủ đề “Sắc màu hội tụ và lan tỏa”.

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Dân tộc Chứt ở tỉnh Quảng Trị hiện có 2.054 hộ với 8.227 nhân khẩu, sinh sống tập trung chủ yếu tại các xã Kim Phú, Kim Điền, Tuyên Lâm, Dân Hóa và Thượng Trạch. Tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực bảo tồn các nét văn hóa dân tộc Chứt thông qua việc xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa dân gian, mở ra hướng phát triển du lịch văn hóa vùng biên.

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Trong tiết trời se lạnh của buổi sớm mai nơi vùng cao Na Son (Điện Biên), chợ phiên Keo Lôm bừng lên sức sống khi đồng bào các dân tộc mang nông sản, sản vật rừng xuống chợ trao đổi, mua bán. Phiên chợ được họp vào ngày thứ 7 hàng tuần, không chỉ là nơi giao thương quen thuộc của người dân địa phương mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn để du khách khám phá, trải nghiệm những nét văn hóa đặc trưng của vùng cao Điện Biên.

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi những ngọn núi trùng điệp xanh mướt nối tiếp nhau trập trùng, có những bản làng bình yên của người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống bao đời nay. Ở nơi đây, tiếng hát, tiếng đàn, điệu khèn vẫn ngân vang mỗi buổi sớm, chiều. Giữa nhịp sống hiện đại, vẫn có những con người thầm lặng, bền bỉ cống hiến cả cuộc đời để bảo tồn tiếng hát, điệu múa, tiếng cồng chiêng và linh hồn của núi rừng quê hương. Đó chính là cội nguồn, bản sắc độc đáo riêng của dân tộc không thể nào bị lãng quên.

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

Trước nguy cơ mai một của một trong những di sản văn hóa độc đáo, dự án “Dáng giày nét Giáy” do InterArts Agency thực hiện đã mang đến một hướng tiếp cận mới mẻ thông qua chuỗi hoạt động trải nghiệm thực tế. Nổi bật trong số đó là workshop làm giày thủ công, nơi kết nối các nghệ nhân bản địa với thế hệ trẻ, biến di sản thành chất liệu sáng tạo đầy sức sống trong bối cảnh hiện đại.

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Tối 26/11 tại Trung tâm Văn hoá - Triển lãm tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan hát Then, đàn Tính tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất năm 2025 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Ngày 17/11, tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng tỉnh tổ chức khai mạc không gian trưng bày, trải nghiệm nhà dài truyền thống và tái hiện “Lễ lên nhà mới” của người Ê Đê. Đây là một trong những nét đặc sặc trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk.

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Chiều 15/11, tại Công viên bờ biển Nha Trang (cạnh Tháp Trầm Hương – Quảng trường 2/4), phường Nha Trang, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa khai mạc trưng bày triển lãm 250 bức ảnh với chủ đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”. Đây là hoạt động góp phần gìn giữ, tôn vinh, lan tỏa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của các dân tộc Việt Nam.

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.