Cựu chiến binh làm giàu, giúp đồng bào dân tộc thiểu số xóa đói giảm nghèo

Nhiều cựu chiến binh ở tỉnh Đồng Nai dù đã trải qua khói lửa chiến tranh, khi trở về đời thường nhưng vẫn tiếp tục phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tiên phong trong phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng.

Không chỉ làm giàu cho bản thân, họ còn là những tấm gương sáng trong công tác xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, giúp đỡ đồng đội và bà con có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống.

Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ

ccb-2.jpg
Cựu chiến binh Nguyễn Đình Thủy ở thôn Tân Lập, xã Phú Nghĩa kiểm tra vườn sầu riêng mới trồng.

Ông Nguyễn Đình Thủy (71 tuổi) ở thôn Tân Lập (xã Phú Nghĩa) từng tham gia kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước và góp sức mình vào cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam. Trở về sau những năm tháng khói lửa chiến tranh, ông Thủy không chọn an nhàn mà tiếp tục cuộc chiến mới đó là chống đói nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no cho bản thân và cộng đồng.

Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ông Thủy về lập gia đình tại huyện Phước Long, xã Đức Hạnh (tỉnh Bình Phước cũ). Những ngày đầu, cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ gặp vô vàn khó khăn, thử thách. Với bản chất kiên cường, ý chí sắt đá của người lính, ông Thủy không lùi bước trước gian nan. Ông nỗ lực không ngừng, tích lũy kinh nghiệm và mạnh dạn đầu tư vào nông nghiệp.

Từ hai bàn tay trắng, ông Thủy đã gây dựng được gần 20 ha đất canh tác. Với tầm nhìn chiến lược và sự cần cù, ông biến vùng đất hoang thành những vườn cây mang lại quả kinh tế cao.

Hiện 15ha đất của gia đình ông được phủ xanh bởi cây cao su, phần còn lại trồng các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như, điều, tiêu và sầu riêng. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý hiệu quả, mô hình kinh tế của ông Thủy mang lại nguồn thu nhập cao. Mỗi năm, gia đình ông thu về hơn 1 tỷ đồng.

Ông Thủy cho biết, chiến tranh đã tôi luyện cho ông ý chí vượt khó, không ngại gian khổ. Khi trở về với cuộc sống đời thường, ông luôn tâm niệm phải làm sao để gia đình mình thoát nghèo, có cuộc sống ổn định. Ông nghĩ, nếu mình có thể chiến đấu vì đất nước thì mình cũng có thể làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.

Không chỉ làm giàu cho bản thân, ông Thủy còn luôn hướng về cộng đồng. Ông đã tạo việc làm ổn định cho 7 lao động thường xuyên là đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn, mức lương khoảng 7 triệu đồng/tháng với những công việc chủ yếu là chăm sóc và thu hoạch nông sản. Vào mùa cao điểm thu hoạch điều, tiêu, số lượng nhân công ông Thủy thuê đông hơn, giúp thêm nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thu nhập, cải thiện đời sống.

Tại xã Phú Nghĩa, câu chuyện về ông Điểu Thuất (49 tuổi) ở thôn 3, người dân tộc S'tiêng, một quân nhân xuất ngũ thuộc Hội Cựu chiến binh xã Phú Nghĩa cũng là một minh chứng sống động về sự vươn lên. Trong những năm qua, từ khi gia nhập Hội Cựu chiến binh, cuộc sống của gia đình ông Điểu Thuất đã khấm khá hơn nhiều.

Sau khi xuất ngũ 1 năm và lập gia đình, ông Điểu Thuất được chia gần 1,3ha đất sản xuất. Sau đó, 1ha đã được trồng cao su và đang cho thu hoạch ổn định 6 năm. Mỗi tháng, vườn cao su mang lại nguồn thu khoảng 15 triệu đồng cho gia đình. Số diện tích đất còn lại được gia đình ông trồng cây cà phê.

Ông Điểu Thuất cho biết: “Môi trường quân ngũ đã cho tôi nhiều bài học đáng quý. Về cuộc sống đời thường, tôi cố gắng làm ăn, học hỏi từ các hội viên cựu chiến binh để vượt khó, có cuộc sống ổn định hơn”.

Ngoài canh tác vườn tược, ông Điểu Thuất còn tích cực đi làm thuê, tham gia tổ an ninh trật tự địa phương, góp phần giữ gìn bình yên cho xóm làng.

Tích cực tham gia công tác xóa đói giảm nghèo

Hội cựu chiến binh tham, vận động hội viên trong hội phát triển kinh tế.

Hội cựu chiến binh tham, vận động hội viên trong hội phát triển kinh tế.

Một trong những minh chứng sự giúp đỡ từ ông Nguyễn Đình Thủy là câu chuyện gia đình anh Điểu Ngọc, dân tộc S'tiêng, ở thôn Bù Gia Phúc 2, xã Phú Nghĩa. Gia đình anh Điểu Ngọc có ít đất sản xuất, cuộc sống bấp bênh. Sau khi được ông Thủy nhận vào làm công việc cạo mủ cao su và một số việc khác, hai vợ chồng anh Điểu Ngọc đã có thu nhập ổn định 7 triệu đồng mỗi tháng.

Có nguồn thu ổn định, gia đình anh Ngọc góp vốn chăn nuôi lợn và mạnh dạn đầu tư trồng cây điều ghép trên mảnh vườn 0,5ha.

Anh Điểu Ngọc xúc động chia sẻ: "Nhờ có ông Thủy mà gia đình tôi đã vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất. Giờ đây, chúng tôi đã có thu nhập ổn định, các con được đến trường đầy đủ".

Là hội viên Hội Cựu chiến binh xã Phú Nghĩa, thời gian qua, ông Điểu Thuất tích cực tuyên truyền cho bà con là đồng bào dân tộc thiểu số biết cách làm ăn, đầu tư vườn cây có năng suất cao hơn.

Ông Thuất cho biết, Hội Cựu chiến binh là nơi tập hợp những người đồng chí, đồng đội, nhiều gương làm kinh tế giỏi nên đã giúp nhau phát triển kinh tế, giúp đỡ hội viên trong cuộc sống. Bản thân ông luôn học hỏi các thế hệ đi trước và sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm của mình để bà con dân tộc thiểu số có thể thoát nghèo, làm giàu trên chính mảnh đất của mình.

Hiện trên địa bàn xã Phú Nghĩa có 448 hội viên cựu chiến binh. Xã Phú Nghĩa hiện có một câu lạc bộ sản xuất kinh doanh giỏi. Các hội viên được Hội Cựu chiến binh duy trì, hỗ trợ; đồng thời có sự lan tỏa và phát triển thêm số lượng các hộ sản xuất kinh doanh giỏi. Hội còn thực hiện các chương trình để nhân rộng điển hình tiên tiến về hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả thiết thực cho bà con.

Ông Nguyễn Đình Nam, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Phú Nghĩa cho biết, những gương hội viên tại xã Phú Nghĩa đã và đang phát huy mạnh mẽ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong thời bình. Họ không chỉ thể hiện ý chí kiên cường vượt khó để làm giàu cho gia đình mà còn là những người tiên phong giúp đỡ những số phận yếu thế vươn lên trong cuộc sống. Những cá nhân trên là tấm gương sáng để thế hệ sau noi theo, góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Những câu chuyện về cựu chiến binh Nguyễn Đình Thủy, hội viên Điểu Thuất và nhiều hội viên cựu chiến binh khác tại tỉnh Đồng Nai là minh chứng sống động cho tinh thần, nỗ lực của những người lính Cụ Hồ. Họ đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không ngừng nỗ lực để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cộng đồng./.

Dân tộc Xtiêng

Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.

Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.

Dân số: 85.436 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh.

Lịch sử: Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Hoạt động sản xuất: Nguồn lương thực chính là lúa gạo, khoảng 80% lúa gạo do rẫy cung cấp. Nhóm Bù Lơ ở cao, sâu hơn hoàn toàn làm rẫy. Nhóm Bù Ðeh (Bù Ðêk) ở vùng thấp làm ruộng nước từ khoảng 100 năm, như cách thức canh tác của người Việt sở tại. Lúa rẫy có các giống khác nhau, được trồng theo lối "phát-đốt-chọc-trỉa", kết quả mùa màng phụ thuộc lớn vào thiên nhiên và việc bảo về trước sự phá phách của chim muông. Công cụ làm rẫy chủ yếu gồm rìu và dao xà gạc để khai phá rừng, sau khi đốt thì dùng cây cào tre có 5 răng để dọn rồi đốt lại, khi trỉa dùng gậy nhọn (mỗi tay cầm một chiếc) để chọc lỗ, đồng thời gieo hạt giống theo, làm cỏ bằng loại cuốc con (về sau thay thế bằng cái xà - bát người Việt sử dụng), dùng tay tuốt lúa. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng thiết thực. Gia súc phổ biến gồm: trâu, bò, lợn, chó, một số hộ nuôi voi; gia cầm chủ yếu là gà. Có nghề dệt vải và đan lát. Việc mua bán thường dùng vật đổi vật (nay dùng tiền) có quan hệ hàng hoá với người Việt, Khơme, Mnông, Mạ và cả với bên Campuchia.

Ăn: Người Xtiêng ăn cơm tẻ, cơm nếp. Thực phẩm thường ngày của họ chủ yếu là những thứ kiếm được trong rừng và sông suối (nay có mua ở chợ hay của thương nhân). Thức uống truyền thống nước lã, rượu cần. Ðồ đựng cơm canh, nước đều là vỏ bầu chế tác có hình dạng thích hợp. Họ hút thuốc lá bằng tẩu (nay ít thấy).

: Người Xtiêng phân bố tập trung tại tỉnh Bình Phước, một số ở Tây Ninh và Ðồng Nai. Vùng cao ở nhà trệt, mái trùm gần xuống mặt đất và có nơi uốn tròn ở hai đầu hồi và ở một mặt bên. Vùng thấp thường làm nhà sàn khá khang trang, vách dựng nghiêng phía trên ra ngoài. Theo nếp xưa, mỗi làng chỉ gồm một vài ngôi nhà dài, nay hình thức nhà ngắn của từng hộ đang phát triển.

Mặc: Thông thường, đàn ông đóng khố, ở trần, đàn bà mặc áo, quấn váy. Trước kia, phụ nữ nghèo ở nhiều nơi cũng dùng khố. Họ ưa đeo nhiều trang sức, thường dùng các loại vòng kim loại và chuỗi cườm, thậm chí một cánh tay đeo tới trên 20 chiếc vòng nhôm nay bạc, có cả loại vòng ống quấn từ sợi dây đồng dài ôm quanh ống chân, ống tay. Loại hoa tai lớn bằng ngà voi được ưa chuộng. Nay nam giới mặc như người Việt, nữ hay dùng áo cánh, sơ mi, ở vùng gần người Khơ Me cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng quấn váy Khơ Me.

Phương tiện vận chuyển: Các loại gùi rất thông dụng, cách gùi như ở các tộc Thượng khác. Nhóm gần người Việt và Khơ Me, các loại xe gỗ 2 bánh dùng đôi bò kéo từ lâu đã trở thành một phương tiện vận chuyển phổ biến.

Quan hệ xã hội: Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak). Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm một vài nhà, càng về sau số nhà càng tăng do việc tách hộ ở riêng. Mỗi người không chỉ thuộc về một "bếp", một nhà, một làng, mà còn là thành viên của một dòng họ nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng nhất định và nằm trong các mối quan hệ họ hàng khác nữa. Về tổ chức xã hội truyền thống, làng là đơn vị bao trùm và nổi bật: trong tự bảo quản ở thì ông "già làng" và các bô lão có uy tín cao khác đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Xưa kia, ngoài một số ít người giàu có và đa số thuộc lớp nghèo, xã hội Xtiêng đã có những "nô lệ gia đình" do phải ở đợ, hoặc bị mua về...

Cưới xin: Thông thường nếu nhà trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng, nhưng thực tế phần đông phải ở rể do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu của nhà gái (ché quý, chiêng cồng, trâu...); riêng ở vùng Bình Long, chàng rể luôn phải về ở nhà vợ. Tập tục hôn nhân giữa các nơi, các nhóm có những điểm khác nhau, chẳng hạn: Nhóm Bù Ðek cho phép con trai cô với con gái cậu cũng như con gái cậu với con gái cô lấy nhau, nhưng ở nhóm Bù Lơ chỉ con trai cô được lấy con gái cậu với điều kiện cậu là anh của cô, cũng chỉ được chấp nhận một lần trong mỗi gia đình.

Sinh đẻ: Phụ nữ kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho "thần lúa".

Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.

Ma chay: Quan tài gỗ độc mộc đẽo từ cây rừng. Nếu chết bình thường thì họ chôn trong bãi mộ của làng. Trong quan tài, cùng với tử thi, có bỏ một ít gạo, thuốc lá... Những ché, nồi, dụng cụ... "chia" cho người chết đều để trên và quanh mộ. Người Xtiêng không có tục thăm viếng mồ mả. Có người mới chết, cả làng không gõ cồng chiêng và vui nhộn trong khoảng 10 ngày. Những trường hợp chết bất bình thường phải cúng quải tốn kém hơn, kiêng cữ nhiều hơn, lễ thức làm ngoài khu gia cư của làng và không được chôn vào bãi mộ của làng.

Thờ cúng: Người ta tin con người, con vật, cây cối cũng như muôn vật đều có siêu nhiên, tựa như "hồn". "Thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa... Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền thế, quan trọng.

Lễ tết: Có rất nhiều lễ cúng lớn nhỏ khác nhau trong đời sống của người Xtiêng. Trong đó, lễ hội đâm trâu là lớn nhất, thường được tổ chức mừng được mùa lớn (gia đình thu hoạch lúa từ 100 gùi cỡ to trở lên - loại gùi có tên Sah cach), mừng chiến thắng kẻ thù, mừng làm ăn phát đạt, mừng con cái lớn khôn... Cùng với hiến sinh trâu còn thường có cả bò, lợn. Nếu hiến sinh một trâu, cột lễ để buộc trâu làm đơn giản, nhưng từ 2 trâu trở lên thì cột lễ trang trí đẹp, làm công phu. Tết Xtiêng được gọi là "lễ cúng rơm", sau khi tuốt lúa rẫy xong, trước khi đốt rẫy vụ sau: lễ thức ngày tết có nội dung tạ ơn thần lúa sau một mùa.

Văn nghệ: Người Xtiêng rất yêu âm nhạc. Nhạc cụ quan trọng nhất, đồng thời là một trong số gia tài quý ở xã hội truyền thống, là cồng và chiêng; nhóm Bù Lơ chủ yếu dùng chiêng, mỗi bộ 6 chiếc, nhóm Bù Ðek (Bù Ðêk) chủ yếu dùng cồng, mỗi bộ 5 chiếc. Riêng trong đám ma, chỉ dùng 3 cồng hoặc 3 chiêng. Ngoài ra, còn có tù và, trống, khèn bầu, các loại đàn. Người Xtiêng cũng có kho tàng truyện cổ khá phong phú, có những điệu hát của mình. Tuy nhiên, đến nay, tương tự như nhiều nơi khác, ngay cả cồng, chiêng cũng chỉ còn rất ít so với xưa kia.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Xtiêng

Có thể bạn quan tâm

Người Sư cả 'nặng lòng' với cộng đồng người Chăm

Người Sư cả 'nặng lòng' với cộng đồng người Chăm

Ở vùng đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại tỉnh Lâm Đồng, Sư cả Thường Xuân Hữu (sinh năm 1947), Chủ tịch Hội đồng chức sắc Bàlamôn giáo tỉnh là người được bà con tin yêu, kính trọng. Không chỉ tận tâm dẫn dắt tín đồ trong sinh hoạt tôn giáo, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, ông còn là người có uy tín tiêu biểu, gương mẫu vận động đồng bào chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng nếp sống văn minh, góp phần bồi đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thắp lửa khởi nghiệp cho thanh niên vùng khó

Thắp lửa khởi nghiệp cho thanh niên vùng khó

Sinh năm 1995 tại xã Phú Túc (tỉnh Gia Lai), anh Kpă Séo, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ thanh niên xã Đất Bằng, là một trong những gương mặt thanh niên tiêu biểu của địa phương trong phong trào thi đua lao động sản xuất, khởi nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Hiến đất mở đường, tháo gỡ 'điểm nghẽn' hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Hiến đất mở đường, tháo gỡ 'điểm nghẽn' hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Thực hiện khâu đột phá của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Ia Hiao lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo vận động nhân dân hiến đất mở rộng đường giao thông nông thôn, phong trào hiến đất làm đường tại xã Ia Hiao (tỉnh Gia Lai) thời gian qua đã lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.

Lớp học tình thương nơi rốn lũ

Lớp học tình thương nơi rốn lũ

Giữa xã Thiên Nhẫn - nơi được mệnh danh là “rốn lũ” của tỉnh Nghệ An có một ngôi trường không còn tiếng trống, không cờ hoa. Thế nhưng, vào mỗi dịp cuối tuần, nơi đây lại rộn ràng tiếng cười nói và tinh thần ham học của hơn 30 học trò tiểu học đặc biệt. Đó là lớp học tình thương do các cựu giáo chức tâm huyết tổ chức cho những đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn được tiếp thêm kiến thức, kỹ năng và hơi ấm yêu thương.

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Nghệ nhân Triệu Thị Vui, 67 tuổi, ở xã Thuận Hòa (TP Cần Thơ), được biết đến như “người giữ lửa” của nghề vẽ tranh trên kiếng truyền thống, một nét nghệ thuật đặc trưng của văn hóa Khmer Nam Bộ. Qua từng nét vẽ tinh tế, bà tái hiện các tích Phật, mang giá trị nghệ thuật và đậm tính tâm linh, đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, góp phần gìn giữ sắc màu tranh kiếng Khmer đang ngày càng hiếm người theo loại tranh thủ công này.

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Với ý chí vươn lên và khát vọng làm giàu ngay trên mảnh đất biên cương, anh Lý Đức Dân (người dân tộc Tày, thôn Nà Toong, xã Thanh Thủy, tỉnh Tuyên Quang) đã trở thành một trong 36 thanh niên tiêu biểu được Trung ương Đoàn tuyên dương năm 2025.

Tuyên dương đồng bào dân tộc thiểu số vượt khó, sáng tạo

Tuyên dương đồng bào dân tộc thiểu số vượt khó, sáng tạo

Ngày 3/12, UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức Hội nghị biểu dương các gương điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số năm 2025, nhằm tôn vinh những cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất, học tập và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

'Cầu nối' phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa Khmer​​

'Cầu nối' phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa Khmer​​

Hơn 10 năm nay, ông Thạch Bình, 63 tuổi, người dân tộc Khmer - người có uy tín tiêu biểu tại xã Nha Bích (Đồng Nai) được người dân biết đến bởi tinh thần nhiệt huyết, tận tâm trong công việc và luôn gương mẫu trong cộng đồng. Với vai trò là người có uy tín, ông đã và đang trở thành cầu nối quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Khmer tại địa phương.

Những nữ 'nông dân số' ở Lào Cai

Những nữ 'nông dân số' ở Lào Cai

Những năm qua, công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến đã được các cấp, ngành tỉnh Lào Cai chú trọng thực hiện, qua đó xuất hiện nhiều tấm gương trong cộng đồng đi đầu về phát triển kinh tế, xã hội.

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Giữa không gian núi rừng Điện Biên, lực lượng người có uy tín từ lâu giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng. Am hiểu phong tục, tiếng nói địa phương, họ là cầu nối đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân một cách gần gũi và thuyết phục.

Giữ ngọn lửa yêu văn hóa dân tộc cho trẻ em vùng biên

Giữ ngọn lửa yêu văn hóa dân tộc cho trẻ em vùng biên

Sinh ra trong gia đình có truyền thống dạy tiếng Khmer, cô Thạch Thị Phắt Cà Đi, giáo viên Trường Tiểu học Hòa Đông (xã Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh) nỗ lực học tập và chọn mảnh đất vùng biên tỉnh Tây Ninh gắn bó với nghề giáo.

Vượt biển ra đảo gắn bó với sự nghiệp 'trồng người'

Vượt biển ra đảo gắn bó với sự nghiệp 'trồng người'

Tỉnh An Giang hiện có 3 đặc khu gồm: Phú Quốc, Thổ Châu, Kiên Hải; nhiều đảo, xã đảo có trường học ở các cấp học. Với sự tâm huyết, nỗ lực, các thế hệ giáo viên nơi đây đã từng bước nâng cao chất lượng giáo dục địa phương. Nhiều cán bộ, giáo viên từ đất liền đã không ngại vất vả, gian khổ đến với các xã đảo, đặc khu từ giai đoạn còn nhiều khó khăn và gắn bó trong nhiều thập kỷ qua.

Vượt lũ dữ mang con chữ đến vùng biên viễn

Vượt lũ dữ mang con chữ đến vùng biên viễn

Tháng 11 lại về, mang theo không khí lắng đọng của mùa tri ân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Trên dải đất miền biên viễn xã Kim Phú (Quảng Trị), nơi những bản làng của đồng bào Rục, Chứt còn gặp muôn vàn gian khó, hành trình “gieo chữ” của thầy cô giáo dường như càng trở nên thiêng liêng và xúc động hơn bao giờ hết.

'Giữ lửa' tri thức cho học sinh dân tộc Chăm vùng biên giới Tây Nam

'Giữ lửa' tri thức cho học sinh dân tộc Chăm vùng biên giới Tây Nam

Ở miền biên giới tỉnh Tây Ninh trước đây, công tác giáo dục với học sinh dân tộc thiểu số luôn khó khăn do điều kiện kinh tế, rào cản ngôn ngữ và tập quán truyền thống. Bằng sự tận tâm, kiên trì và hiểu biết sâu sắc văn hóa dân tộc Chăm, cô giáo A My Ná - giáo viên Trường Tiểu học Tân Hưng (xã Tân Phú, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành điểm tựa vững chắc cho nhiều thế hệ học sinh vùng biên viễn. Cô đã còn góp phần thay đổi nhận thức của phụ huynh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương.

Người thầy - chiến sĩ Công an nhân dân đặc biệt ở vùng cao biên giới

Người thầy - chiến sĩ Công an nhân dân đặc biệt ở vùng cao biên giới

“Hôm nay là buổi học cuối cùng thầy đứng lớp với các bạn. Thầy chuẩn bị về Hà Nội để nhận công tác mới”, sau câu nói ấy, cả phòng học ngưng đọng, trong khóe mắt của Thiếu tá Vũ Văn Chính những giọt nước mắt tự trào ra. Đây là nơi anh đã thổi luồng gió mới vào bộ môn tiếng Anh. Nơi anh đã gắn bó với các học sinh người Mông, người Mảng… của Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Nậm Ban, xã Pa Tần (Lai Châu) trong 2 năm qua.

Chuyện về những nhà giáo 'cắm bản' nơi vùng cao biên giới

Chuyện về những nhà giáo 'cắm bản' nơi vùng cao biên giới

Những năm gần đây, giáo dục vùng cao tỉnh Thanh Hóa đang từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em các dân tộc thiểu số. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến của những thầy cô tận tâm, bám bản, bám lớp để “gieo chữ” nơi những bản làng biên giới xa xôi.

'Ngọn hải đăng' mang ánh sáng tri thức đến với trẻ em vùng cao

'Ngọn hải đăng' mang ánh sáng tri thức đến với trẻ em vùng cao

Vượt qua đói nghèo, những cung đường hiểm trở và khó khăn, các giáo viên cắm bản đã chọn ở lại để gieo mầm tri thức trên chính quê hương mình. Tình yêu nghề, yêu trẻ đã trở thành động lực mạnh mẽ, giúp họ kiên trì bám trụ, là những "ngọn hải đăng" mang ánh sáng tri thức đến bản làng xa xôi.

Thắp sáng tri thức nơi vùng biên

Thắp sáng tri thức nơi vùng biên

Trong hành trình thầm lặng của sự nghiệp trồng người, có những thầy cô đã dành cả thanh xuân để gắn bó với vùng cao, biên giới. Họ vượt lên gian khó, coi trường lớp là nhà, coi học trò như con, coi việc gieo chữ là sứ mệnh cả đời. Những câu chuyện giản dị nhưng xúc động ấy góp phần làm nên ý nghĩa của chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” 2025, nơi tôn vinh những con người bình dị mà phi thường.

Vững vàng thế trận lòng dân nơi cực Tây Tổ quốc

Vững vàng thế trận lòng dân nơi cực Tây Tổ quốc

Giữa vùng đất biên cương nơi cực Tây của Tổ quốc, dù còn nhiều gian khó, nhưng ngày cũng như đêm, những người lính vẫn chắc tay súng, kiên cường bám trụ nơi tuyến đầu, bảo vệ từng cột mốc, từng tấc đất thiêng liêng của non sông. Không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, các chiến sĩ Ban Chỉ huy Phòng thủ khu vực 1 - Mường Nhé còn đồng hành, sẻ chia cùng đồng bào, góp phần củng cố “thế trận lòng dân”, gieo niềm tin và khát vọng bình yên nơi phên dậu Tổ quốc.

Nghệ An: Người phụ nữ Thái nặng lòng với trang phục truyền thống của dân tộc Ơ Đu

Nghệ An: Người phụ nữ Thái nặng lòng với trang phục truyền thống của dân tộc Ơ Đu

Hơn 15 năm qua, bà Vi Thị Dung, gần 80 tuổi, dân tộc Thái tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An), nơi đồng bào Ơ Đu tập trung sinh sống, vẫn luôn đau đáu việc gìn giữ, trao truyền bộ trang phục truyền thống của người Ơ Đu. Hiện nay, bà Vi Thị Dung là một trong số rất ít người tại bản Văng Môn nắm bắt được kỹ thuật dệt và nhớ được các mẫu họa tiết, hoa văn trên các bộ phận váy, dây thắt lưng, áo, khăn quàng của bộ trang phục truyền thống phụ nữ Ơ Đu.

'Người gieo mầm xanh' ở đất Sen hồng

'Người gieo mầm xanh' ở đất Sen hồng

Với lòng yêu nghề và kiến thức chuyên môn vững vàng, thầy Lê Văn Sơn, giáo viên Trường Trung học phổ thông Lấp Vò 1 (tỉnh Đồng Tháp) đã đạt nhiều thành tích xuất sắc trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học. Thầy được ví như “người gieo mầm xanh”, tận tâm dìu dắt nhiều thế hệ học trò vươn tới thành công, trong đó có không ít em đạt giải cao trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia và được tuyển thẳng vào các trường đại học.

Nữ doanh nhân lan tỏa tinh hoa thảo dược quê hương

Nữ doanh nhân lan tỏa tinh hoa thảo dược quê hương

Với khát vọng vươn lên, dám nghĩ dám làm, chị Mai Thị Thủy, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cao Dược liệu Định Sơn Mai Thị Thủy, xã Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, đã mạnh dạn khởi nghiệp, phát triển thương hiệu các sản phẩm dược liệu ở địa phương ra thị trường lớn, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.

Nữ giám đốc 9X khởi nghiệp từ hạt gạo vươn ra thế giới

Nữ giám đốc 9X khởi nghiệp từ hạt gạo vươn ra thế giới

Giám đốc Công ty TNHH MEDIFOOD.IO Trần Mạc Vân Anh ở phường Chơn Thành (tỉnh Đồng Nai) là điển hình sáng về người phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo, đưa sản phẩm làm bằng hạt gạo truyền thống Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế, đồng thời có những đóng góp tích cực cho cộng đồng và phát triển bền vững.

Hành trình đưa nông sản Việt từ bản làng vươn ra thế giới

Hành trình đưa nông sản Việt từ bản làng vươn ra thế giới

Bà Thị Khưi (41 tuổi, người dân tộc M’nông) sống tại xã Thọ Sơn, tỉnh Đồng Nai không chỉ nối gót ông cha xây dựng quê hương mà còn trở thành Giám đốc một hợp tác xã trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tiên phong đưa nông sản Việt vươn ra thế giới. Bà còn góp phần phát triển nông nghiệp sạch bền vững, cải thiện cuộc sống ấm no cho đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương.