“Chỉ cần bạn không dừng lại, không từ bỏ thì bước chân nhỏ bé hôm nay có thể đưa bạn đến ước mơ ngày mai. Tôi tin mọi đứa trẻ đều có thể đặt chân đến giảng đường nếu không từ bỏ”, Phùng Thị Thúy, cô gái dân tộc Mường đến từ thôn Nậm Giang 2 (xã Nậm Chạc, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) vui vẻ tâm sự. Ẩn sau nụ cười tươi và ánh mắt sáng là cả một hành trình gian khó, kiên cường vươn lên từ nghèo khó để trở thành sinh viên của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

Lớn lên trong một gia đình dân tộc Mường duy nhất giữa xóm người Mông và Dao, tuổi thơ của Thúy gắn liền là những tháng ngày chật vật, thiếu thốn. Bố của Thúy tần tảo, vất vả làm đủ thứ nghề để nuôi em ăn học, khi thì làm thuê ở lò gạch, khi lại bốc vác để kiếm thêm thu nhập; mẹ làm nông, từng học rất giỏi nhưng phải nghỉ học từ lớp 9 vì gia đình quá nghèo.
“Mẹ tôi viết chữ còn đẹp hơn cả tôi bây giờ”, Thúy nói rồi mỉm cười đầy tiếc nuối.
Thuở nhỏ, Thúy chưa từng biết đến sinh nhật là gì. Mỗi lần được bạn bè trong xóm mời dự sinh nhật, cô gái nhỏ lại háo hức nhìn các bạn thổi nến, cắt bánh, rồi lặng lẽ ước ao một lần được như thế. Mãi khi học đến trung học cơ sở, Thúy mới nhớ được ngày sinh nhật của mình.
Biến cố ập đến khi Thuý học lớp 4, gia đình vỡ nợ, bố mẹ phải bán nhà và gánh thêm khoản nợ lớn. Gia đình Thúy chuyển đến một bản xa, sống trong căn nhà tạm. Trong ký ức của em, mùa đông tại "căn nhà mới" rất lạnh, gió không ngừng lùa vào qua từng khe nứa, nhiều đêm em mất ngủ, bố mẹ phải phủ bạt xung quanh giường... Sau đó bố mẹ gửi hai chị Thúy về nhà bà ngoại, song căn nhà của ngoại cũng không khá hơn.
“Có hôm mưa to, bà ngoại phải lấy áo mưa che trên màn để ba bà cháu ngủ. Nhưng cũng có những hôm mưa to quá, ba bà cháu đang ngủ, nước đổ ập xuống mặt... Cảm giác rất sợ hãi… ”, Thúy nhớ lại những ngày thơ ấu.
Cùng với đó, đường đến trường khá xa, bữa trưa Thúy mang theo cặp lồng cơm, có hôm chỉ có mì tôm, cũng có hôm có thêm quả trứng, vài ba miếng thịt… Mưa gió, các bạn được bố mẹ đón về, Thúy nhìn theo lòng không khỏi buồn, tủi thân. Nhưng rồi em cố gắng khắc phục khi thấy xung quanh vẫn còn nhiều bạn cũng hoàn cảnh như mình.
Khi lên trung học phổ thông, nghe các bạn nói vào trường nội trú sẽ được nuôi ăn ở miễn phí, Thúy quyết tâm theo học. Môi trường mới đã mở ra một thế giới khác cho cô gái nhỏ: Có bạn bè khắp nơi, không còn lo thức giấc vì dột mưa, được thầy cô dìu dắt, hun đúc ước mơ. Lần đầu tiên nghe bạn bè nói về đại học, Thúy tự hỏi: Liệu mình có thể không? Nhìn quanh, nhiều bạn bè cùng trang lứa đã nghỉ học sớm để lấy chồng, đi làm nương, tối về chăn lợn. Cô gái nhỏ không muốn cuộc sống của mình chỉ quanh quẩn như vậy.

Đặc biệt khi nghe lời tâm sự của bố: "Bố em chỉ học hết lớp 3, chỉ biết ít chữ, vì thế bố sẽ cố gắng để chăm lo con được học hành đến nơi đến chốn". Ngọn lửa quyết tâm trong Thúy cũng được thắp sáng thêm khi cô gái trẻ biết đến câu chuyện của chị Chảo Thị Yến, cô gái người Dao đầu tiên giành học bổng du học châu Âu.
“Chị Yến cũng xuất thân từ nghèo khó giống mình. Gia đình chị cũng chưa có ai đi học đại học. Nhưng chị đã nỗ lực có thể sang trời Âu để học. Chị Yến làm được, tại sao mình lại không làm được? Từ đó thôi thúc em quyết tâm phấn đấu thi đỗ một trường đại học tại Hà Nội… ”, Thúy nhớ lại.
Nhận được giấy báo trúng tuyển, cô gái nhỏ hò reo trong vui sướng: “Đỗ đại học rồi!”. Khi bố mẹ đi làm về biết tin cũng cảm thấy rất vui mừng, nhưng sau đó cũng bắt đầu lo lắng... Là người đầu tiên trong thôn đỗ đại học ở Hà Nội, Phùng Thị Thúy mang theo không chỉ khát vọng của bản thân, mà còn là niềm tin và kỳ vọng của cả bản làng.

“Một tháng sau đó, tôi phải nhập học, đóng 11 triệu, nhưng trong nhà chưa có 10 triệu, làm sao có tiền đi học. Tôi cảm thấy nhụt chí. Nhưng được bố mẹ động viên: ‘Con cứ yên tâm, bố mẹ sẽ cố gắng lo được’, tôi an tâm phần nào. Buổi tối trước khi lên đại học, nhà tôi có làm vài mâm cơm để mời các cô bác, họ hàng và bà con trong bản đến để ăn mừng và tạm biệt em lên Hà Nội học đại học.
Không ai bảo ai, bà con trong thôn cùng nhau góp từng đồng lẻ, chắt chiu từ công việc đồng áng, chăn trâu, để làm hành trang cho tôi bước vào giảng đường. Tôi nhớ lúc đó ông San dúi tiền vào tay tôi, dù ông tuổi đã cao, đi chăn trâu để trang trải cuộc sống. Một bác khác thủ thỉ động viên: "Lên Hà Nội, Thúy cố gắng học tập… bác mong sau này con bác cũng giống như Thúy… Sau buổi tối hôm đó, tôi càng cảm thấy biết ơn, trân trọng tình cảm của mọi người…”, Thúy chia sẻ.
Hành trình học đại học tại Hà Nội mở ra chuỗi những “lần đầu tiên” của cô gái nhỏ: Lần đầu đi thang máy, xem phim tại rạp, thấy những tòa nhà chọc trời, những ánh đèn rực rỡ về đêm. “Tôi còn nhớ lúc nằm trên xe khách, ánh sáng xuyên qua tấm rèm cửa, tôi hé rèm ra và choáng ngợp trước những tòa nhà cao tầng san sát, ánh đèn sáng cả đêm…, những điều này tôi chưa từng thấy ở thôn, bản. Tôi biết, mình đang bước vào một thế giới mới”, Thúy kể lại.


Tháng 1/2025, Thúy mong muốn tạo ra những giá trị cho cộng đồng, cô gái trẻ quyết định tạo ra kênh Tik Tok “Thúy trên bản” để chia sẻ cuộc sống ở vùng cao, những hoạt động đi hái rau rừng, chăm lợn để lan tỏa cho bạn bè ở đại học và những bạn ở dưới xuôi biết được cuộc sống ở trên vùng cao như thế nào, văn hóa vùng cao ra sao và chia sẻ cuộc sống tại ký túc xá, hay quãng thời gian sinh viên tươi đẹp… Đặc biệt, Thúy mong muốn cho những em nhỏ ở trên thôn, bản có thể nhìn thấy chị Thúy đi học đại học, tham gia những trải nghiệm vui vẻ như thế nào? Từ đó truyền cảm hứng cho các em theo đuổi giấc mơ đại học.
Song song với việc học, Thúy còn tổ chức nhiều hoạt động thiện nguyện, đáng nhớ nhất là chương trình “Nấu ăn cho em”. “Có em chưa từng biết đến xúc xích hay sợi bún. Nhìn ánh mắt háo hức của các bạn nhỏ, tôi như thấy lại chính mình ngày bé, cũng từng ao ước có một bữa ăn ngon. Tôi chỉ mong, những khoảnh khắc ấy sẽ tiếp thêm niềm tin và động lực cho các em nhỏ tiếp tục vươn lên,” Thúy chia sẻ.
Trong một chuyến đi thiện nguyện khác, Thúy từng gặp một cô gái dân tộc thiểu số, da rám nắng, cõng con nhỏ trên lưng… “Cô gái mới 18 tuổi, đã có ba con. Khoảnh khắc đó khiến tôi trăn trở rất nhiều. Tôi không muốn mình sống cuộc đời như thế. Tôi muốn được ra ngoài khám phá, học hỏi, trưởng thành để thay đổi cuộc đời mình, gia đình mình và cả thôn, bản của mình. Tôi luôn tâm niệm, chỉ cần bạn không dừng lại, không bỏ cuộc, thì bước chân nhỏ hôm nay sẽ đưa bạn đến giấc mơ ngày mai. Mọi đứa trẻ dù ở đâu đều có thể đặt chân tới giảng đường nếu không từ bỏ”, Thúy mỉm cười, ánh mắt rạng rỡ như chính hành trình mình đang đi.

“Có thể ai đó thất hứa với mình, nhưng bản thân mình không được phép thất hứa với chính mình”, cô gái dân tộc Mông Sùng Thị Phương (sinh viên năm 3, Học viện Báo chí và Tuyên truyền) chia sẻ khi kể về hành trình đi tìm tri thức, vượt lên số phận để trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.
Là con út trong một gia đình có sáu anh chị em ở thôn Tỉnh B, xã Xá Nhè (huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên), tuổi thơ của Phương là những ngày cơ cực khi mất cha từ sớm, một mình mẹ gồng gánh nuôi cả đàn con thơ. Ở vùng cao, sau khi chồng mất, nhiều người phụ nữ tái hôn, nhưng mẹ Phương đã chọn “ở vậy”, làm việc, chắt chiu từng đồng lo cho các con từng bữa ăn…
Dù mong mỏi các con đi học, nhưng cái nghèo luôn là rào cản. Các chị của Phương phải nghỉ học sớm từ lớp 1, lớp 2 để đi làm nương, làm rẫy phụ mẹ. Phương may mắn hơn khi năm 6 tuổi, em được đón vào làng trẻ em SOS Điện Biên Phủ, mái nhà thứ hai, nơi em được sống trong một gia đình nhỏ có 10 đứa trẻ và một “người mẹ” tận tụy chăm sóc.
“Nếu ở lại quê, tôi đã phải lấy chồng sớm như nhiều bạn cùng lứa. Nhưng nhờ được sống và học tập ở làng trẻ em SOS, tôi mới có cơ hội viết tiếp giấc mơ đến trường”, Phương xúc động kể.
Xa nhà từ nhỏ, cô gái không khỏi buồn tủi, năm 6 tuổi được anh rể đưa đến làng trẻ em SOS, Phương nghĩ mọi người sẽ quay lại đón mình. Nhưng từ đó, mỗi năm em được về nhà một lần thăm mẹ và các anh chị. “Những ngày đầu, tôi nhớ mẹ lắm. Nhìn các bạn có bố mẹ đưa đón, tôi tủi thân vô cùng. Tôi mất bố từ nhỏ, chưa từng cảm nhận được hơi ấm của cha. Mẹ thì sinh tôi muộn, giờ đã hơn 60 tuổi rồi, sức khỏe cũng yếu đi nhiều...”, Phương chia sẻ.
Dù xa mẹ và các anh chị, nhưng Phương luôn được mẹ dặn dò phải cố gắng học hành để có tương lai tươi sáng, không lấy chồng sớm như bao bạn bè cùng tuổi. Mẹ nuôi ở làng SOS cũng không quên nhắc em học tiếng Mông thật tốt để có thể trò chuyện, giúp đỡ mẹ nhiều hơn.

“Cho đến hiện tại, khi tâm sự với mọi người, các chị trong nhà cũng bày tỏ sự hối tiếc vì ngày xưa không có điều kiện đi học, bây giờ các chị muốn làm kinh tế cũng gặp nhiều khó khăn…. Mỗi lần về quê, thấy chị dâu không biết tiếng phổ thông, không biết chữ, dành hết thời gian để lao động, làm công việc nặng nhọc, rất vất vả, tôi cảm thấy thương chị vô cùng… Bản thân tôi đã có những trải nghiệm làm nương, trồng bắp từ năm lớp 6 khi phụ giúp mẹ. Tôi nhớ ngày đó, đường đồi núi rất dốc, tôi vừa đeo gùi trên lưng vừa cầm một túi gạo nặng và băng qua một cánh rừng…, vì mệt quá, giữa đường tôi đã bật khóc, mẹ phải an ủi, dỗ dành tôi để tiếp tục đi tiếp được…”, Phương bộc bạch.
Nói về hành trình theo đuổi giấc mơ đại học, Phương chia sẻ: “Tôi học tốt nhất là môn ngữ văn nên tôi quyết định thi tuyển vào ngành báo chí. Tôi cũng muốn trau dồi, rèn luyện khả năng giao tiếp, sự tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống… Trước khi thi đại học, có quãng thời gian tôi suy sụp tinh thần, cảm giác mọi thứ sụp đổ khi nghe tin anh trai mất… Nhưng nhờ thầy cô ở làng trẻ em SOS luôn bên cạnh, động viên, tôi mới dần vực dậy tinh thần. Từ đó, tôi tự nhủ phải mạnh mẽ hơn, phải biết dựa vào chính mình, không được gục ngã…".
"Nhận được giấy báo trúng tuyển Học viện Báo chí và Tuyên truyền, lúc đó sát ngày nhập học, tôi vừa bất ngờ vừa hạnh phúc. Không nghĩ là mình lại có thể đỗ đúng ngôi trường mơ ước... Ngày đầu xuống Hà Nội nhập học, tôi lúng túng, lo lắng vì không có người thân đi cùng. Nhìn các bạn có gia đình bên cạnh hỗ trợ, tôi cũng tủi thân lắm…”, Phương nhớ lại.

Nhưng vượt lên nỗi buồn và nỗi lo, Sùng Thị Phương vẫn giữ vững lựa chọn của mình. Cô miệt mài học tập với ước mơ trở thành một nhà báo tài năng, có tâm để sau này trở về làng, tiếp sức, truyền cảm hứng cho những em nhỏ người dân tộc thiểu số như mình.
“Trước đây tôi rất nhút nhát, ngại ngùng khi đưa ra ý kiến, quan điểm của mình... Giờ đây, tôi đã tự tin hơn, biết thể hiện cá tính, biết nói lên tiếng nói của mình. Tôi mong phụ nữ và trẻ em dân tộc thiểu số được tiếp cận nhiều hơn với giáo dục, để mở rộng tương lai. Khi tốt nghiệp, có công việc ổn định, tôi sẽ quay trở ại làng trẻ em SOS để tiếp sức, hỗ trợ cho các em nhỏ dân tộc thiểu số vượt qua định kiến, vươn lên bằng tri thức và sự tử tế”.
Sống giản dị, chân thành, Sùng Thị Phương luôn nhắc mình không được quên ơn những người đã nâng bước em trên hành trình với những lời khuyên bổ ích: “Ăn đủ ba bữa một ngày, luôn biết cảm ơn và đối xử tử tế với mọi người. Có thể ai đó thất hứa với mình, nhưng bản thân mình không được phép thất hứa với chính mình”, Phương nói, ánh mắt rạng rỡ niềm tin.
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn

Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).
Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.
Dân số: 1.268.963 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ...
Hoạt động sản xuất: Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia đình, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).
Ăn: Họ thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá tãi đều cho khỏi nát trước khi ăn. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Mặc: Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.
Ở: Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Phương tiện vận chuyển: Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Quan hệ xã hội: Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình 2-3 thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản.
Cưới xin: Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Sinh đẻ: Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.
Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được 3-7 ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (7 đến 10 ngày) nhất là 3 ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.
Ma chay: Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gia thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì, dẫn dắt. Bên cạnh hình thức chịu tang của con trai, con gái như vẫn bình thường thấy ở người Việt, riêng con dâu, cháu dâu chịu tang cha mẹ, ông bà còn có bộ tang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Lịch: Lịch cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.
Văn nghệ: Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Chơi: Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.
Theo cema.gov.vn
