Là giáo viên tiếng Anh, nhiều năm qua chị Nguyễn Hồng Nữ (36 tuổi, dân tộc Chơ Ro, ngụ xã Xuân Thành, tỉnh Đồng Nai) gắn bó với việc giảng dạy cho học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Không chỉ tận tâm với chuyên môn, chị còn là một người uy tín trong cộng đồng, miệt mài gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ trẻ những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Chơ Ro, góp phần làm sống dậy bản sắc và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Người dân tộc thiểu số thông thạo 3 thứ tiếng
Sinh ra trong gia đình nghèo có 4 anh chị em, tuổi thơ của chị Nữ gắn liền với ruộng đồng. Quan điểm định kiến, bố chị cho rằng, con gái chỉ cần học hết tiểu học, biết đọc, biết viết rồi ở nhà đi làm phụ giúp gia đình. Đến năm học cấp 2, bố chị cương quyết bắt chị nghỉ học để theo gia đình làm rẫy.
“Lúc đó tôi buồn và khóc nhiều lắm. May mắn, mẹ thương con gái nên đã lam lũ làm đủ nghề để kiếm sống và nuôi các con ăn học. Bốn anh em tôi vì vậy mà tiếp tục được đến trường”, chị Nữ nhớ lại.
Nhận thấy hoàn cảnh khó khăn, mỗi trang sách, con chữ đến với mình đều phải đánh đổi bằng mồ hôi của bố, nước mắt và sự tần tảo của mẹ. Vì vậy, chị Nữ quyết tâm bằng mọi giá phải cố gắng học tập để thay đổi cuộc sống. Suốt nhiều năm học, chị đều đạt thành tích học tập khá, giỏi.

Cô giáo Nguyễn Hồng Nữ hướng dẫn học sinh trường Tiểu học Nguyến Khuyến (xã Xuân Thành, tỉnh Đồng Nai) phát âm tiếng Anh.
Lên cấp trung học phổ thông, lần đầu được tiếp xúc với môn Tiếng Anh, chị Nữ như nhìn thấy một chân trời mới. Đối với chị, Tiếng Anh giống như một cánh cửa mở ra thế giới rộng lớn với muôn vàn kiến thức mới giúp chị không ngừng nuôi dưỡng ước mơ và khát vọng vươn lên. Từ những bài học đầu tiên, chị say mê tìm tòi, tự học qua sách vở, rồi kiên trì luyện tập từng ngày. Tiếng Anh dần trở thành niềm đam mê, là hành trang để chị tự tin bước vào giảng đường đại học.
Tốt nghiệp ngành Sư phạm Tiếng Anh, chị quyết định trở về quê hương và làm việc tại Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến. Với chị, gieo chữ nơi bản làng, mang tri thức và truyền khát vọng học tập cho các em nhỏ vùng đồng bào dân tộc thiểu số là điều ý nghĩa nhất. Biết các em học sinh Chơ Ro còn rụt rè, e ngại với môn tiếng Anh, chị Nữ tìm cách biến việc học thành niềm vui. Thay vì bài giảng khô khan, chị lồng ghép ngữ pháp vào bài hát, biến từ vựng thành trò chơi, khuyến khích học sinh mạnh dạn nói, dù chỉ một từ đơn giản.

Giờ học tiếng Anh của học sinh trường Tiểu học Nguyến Khuyến (xã Xuân Thành, tỉnh Đồng Nai).
“Tôi thường sử dụng cả 3 thứ tiếng trong cuộc sống hằng ngày, với đồng nghiệp tôi sử dụng tiếng Việt, khi giao tiếp trong gia đình, làng xóm tôi sử dụng tiếng Chơ Ro và khi đứng lớp tôi sẽ sử dụng Tiếng Anh để giao tiếp và dạy cho các em”, chị Nữ cho biết.
Kiên nhẫn gieo từng con chữ, dần dần những học trò nhỏ của chị cũng đã có sự thay đổi, từ rụt rè ngày càng trở nên tự tin. Nhiều em không chỉ mạnh dạn phát biểu, giao tiếp cơ bản bằng tiếng Anh mà còn tham gia các hội thi, mang thành tích về cho trường.

Cô Nguyễn Hồng Nữ luôn thay đổi phương pháp dạy giúp học sinh mạnh dạn giao tiếp và phát triển tiếng Anh.
Em Nguyễn Thị Thu Hằng, học sinh lớp 5 cho biết, ban đầu khi tiếp xúc với môn tiếng Anh, em rất sợ vì thấy nó mới và khó hình dung. Tuy nhiên, sau những bài học với cô Nữ, nó trở nên gần gũi, dễ hiểu và tạo hứng thú cho học sinh thông qua các trò chơi, bài hát và lồng ghép cả những phong tục của đồng bào Chơ Ro vào bài học. “Em rất yêu thích môn tiếng Anh. Giờ đây, em đã tự tin hơn khi đọc và giao tiếp với cô Nữ với những câu nói đơn giản trong buổi học”, em Hằng cho biết.
Theo cô Nguyễn Thị Vân, Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Khuyến, cô Nữ là giáo viên giỏi chuyên môn, giàu nhiệt huyết, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cô đạt nhiều danh hiệu thi đua, được phụ huynh và học sinh tin yêu. Không chỉ năng nổ trong giảng dạy, cô còn tích cực tham gia các hoạt động của nhà trường, có khả năng sử dụng thông thạo 3 thứ tiếng, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng Anh cũng như hình ảnh của nhà trường trong cộng đồng.
Miệt mài gìn giữ văn hóa Chơ Ro

Với vai trò là người uy tín trong đồng bào dân tộc Chơ Ro tại xã Xuân Thành (Đồng Nai), chị Nguyễn Hồng Nữ thường xuyên đến các hộ dân để gặp gỡ, tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước cho người dân.
Sinh ra trong một gia đình người Chơ Ro, chị Nữ thấm đẫm trong ký ức tuổi thơ về những điệu múa mừng lúa mới, câu hát dân ca, lễ hội hay món ăn truyền thống mà chỉ có đồng bào mới thực hiện được. Nhưng lớn lên, chị nhận ra thế hệ trẻ trong làng ngày càng ít biết, ít quan tâm đến tiếng nói, lễ hội truyền thống của dân tộc mình. Từ đó, một nỗi trăn trở cứ lớn dần, khát vọng gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống cũng nhen nhóm trong chị.
Hơn 30 tuổi, chị Nữ trở thành người có uy tín trẻ nhất ở tỉnh Đồng Nai. Mang trách nhiệm với cộng đồng, chị không ngừng tìm tòi về văn hóa của đồng bào Chơ Ro từ những người cao tuổi trong làng để tích lũy cho bản thân. Ngoài thời gian làm việc ở trường, chị tận dụng thời gian rảnh tập hợp các em nhỏ để dạy hát, múa, dạy tiếng nói và những món ăn đặc trưng của đồng bào.
Hơn 5 năm miệt mài, đến nay, đã có hơn 20 em nhỏ trong làng được dạy tiếng nói, điệu múa mừng lúa mới trong lễ hội Sayangva của dân tộc Chơ Ro. Chị Nữ thường đưa các em tham gia biểu diễn ở các lễ hội giúp các em thêm phần yêu thích và gắn bó, tích cực giao tiếp bằng tiếng Chơ Ro, điều mà ngay cả nhiều người lớn cũng đã lãng quên. Với chị, được truyền lại cho lớp trẻ dù chỉ là những điệu múa, tiếng nói hay một công thức nấu ăn cũng là một cách giữ hồn quê hương.
“Với tôi, giữ gìn văn hóa không phải là điều gì quá lớn lao. Chỉ cần các em nhỏ thuộc bài hát, biết một vài điệu múa và nói được tiếng Chơ Ro trong giao tiếp hằng ngày đã là điểm sáng để văn hóa Chơ Ro có thể được lưu truyền”, chị Nữ tâm sự.

Chị Nguyễn Hồng Nữ là người uy tín được người đồng bào Chơ Ro, xã Xuân Thành (Đồng Nai) rất gần gũi với người dân.
Không dừng lại ở đó, chị Nữ là người có uy tín được người dân trong khu vực rất nể trọng từ những việc làm dù rất nhỏ. Chị thường xuyên gõ cửa từng nhà đi vận động các gia đình cho con đi học. Chị sẵn sàng xin các nguồn tài trợ, bảo trợ và tặng học bổng giúp các em tiếp tục được tới trường. Nhờ vậy, không có em nhỏ đồng bào dân tộc Chơ Ro nào trong độ tuổi đến trường phải nghỉ học giữa chừng.
Với những nỗ lực không ngừng, chị Nguyễn Hồng Nữ đã nhiều năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh và nhận Bằng khen của UBND tỉnh Đồng Nai. Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, chị liên tục được Sở Dân tộc và Tôn giáo tặng giấy khen. Năm 2024, chị được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đồng Nai mời làm đại diện đồng bào Chơ Ro tham gia tái hiện lễ hội Sayangva phục vụ xây dựng hồ sơ công nhận di sản văn hóa./.
Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Dân số: 26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.
Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.
Ăn: Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau.
Mặc: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.
Ở: Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại Sông Bé (tỉnh Sông Bé từ năm 1997 đã được chia tách thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước) và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh. Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá - nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.
Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.
Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.
Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.
Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.
Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.
Lễ tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.
Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.
Học: Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.
Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.
Chơi: Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.
Theo cema.gov.vn
