Khi sắc hoa mào gà rực đỏ trên những sườn đồi, cũng là lúc đồng bào Cống ở xã Nậm Kè, tỉnh Điện Biên nô nức đón Tết Hoa mào gà, hay còn gọi là Tết Hoa. Đây là dịp để bà con sum họp, vui Tết truyền thống, đồng thời gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện đời sống tinh thần phong phú, tình đoàn kết của cộng đồng người Cống nơi cực Tây Tổ quốc.
Đồng bào dân tộc Cống sinh sống tập trung tại bản Nậm Kè với 73 hộ, 359 nhân khẩu. Người dân canh tác chủ yếu ruộng nước và nương rẫy, một năm một vụ chính. Ngoài ra, người dân còn trồng trọt các loại rau màu trên đất bãi ven sông, suối, phát triển nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm phục vụ Tết, lễ và sinh hoạt hằng ngày. Bên cạnh đời sống vật chất, người Cống còn có đời sống tinh thần phong phú thông qua trang phục, các phong tục tập quán, lễ hội như: Tết Hoa mào gà, Lễ cúng bản, Lễ cúng tổ tiên, Lễ cưới, Lễ lên nhà mới, Lễ lên lão, Lễ tạ ơn Ngọc Hoàng.... Trong đó, Tết Hoa mào gà là độc đáo nhất bởi đây là nghi lễ trong ngày Tết cổ truyền của người Cống và có ý nghĩa kết thúc một năm cũ.
Thầy cúng thực hiện nghi thức cúng thần linh trong ngày Tết Hoa mào gà. Ảnh: TTXVN phát
Người Cống coi đời sống tâm linh là hết sức thiêng liêng, niềm tin về cõi thiêng đó không bao giờ tắt. Họ luôn tin rằng bên cạnh sự nỗ lực của bản thân trong cuộc sống mưu sinh, các thần linh, tổ tiên luôn đồng hành để tiếp thêm sức mạnh cho họ vượt qua thử thách và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống. Các nghi lễ diễn ra trong Tết Hoa ngoài yếu tố thiêng liêng còn có sự tham gia của các yếu tố nghệ thuật trình diễn dân gian nên cuốn hút cả cộng đồng cùng hướng về cội nguồn tổ tiên, bày tỏ lòng biết ơn với các thần linh, các quan thổ thần, thổ địa nơi đồng bào sinh sống.
Ông Hù Văn Thịt, người dân bản Nậm Kè, cho biết: “Tết Hoa mào gà là dịp để đồng bào Cống cùng nghỉ ngơi, vui chơi, thư giãn sau những ngày lao động miệt mài, là dịp để mọi người cùng hướng về cội nguồn, để con cháu tạ ơn ông bà, cha mẹ; cha mẹ tạ ơn ông bà, tổ tiên; dân bản tạ ơn nhau. Bởi qua một năm, họ đã san sẻ với nhau biết bao vui buồn. Bên cạnh đó, người dân bày tỏ tạ ơn trời đất, thần linh đã phù hộ cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tốt tươi, con người khỏe mạnh và là dịp để mọi người cầu xin những điều tốt đẹp cho một năm mới sẽ có thêm những an lành, no đủ”.
Với đồng bào Cống, hoa mào gà là loài hoa linh thiêng, biểu trưng cho sức mạnh, sự kiên cường và niềm tin hướng thiện. Loài hoa này còn được xem là cầu nối tâm linh giữa con người với tổ tiên, giữa người sống với những người đã khuất. Tết Hoa mào gà thường kéo dài từ hai đến ba ngày. Trong thời gian này, bà con tạm gác công việc nương rẫy để cùng nhau thực hiện các nghi lễ cúng tế, cầu cho bản làng bình yên, mùa màng tươi tốt, cuộc sống no đủ. Sau phần lễ là phần hội, nơi những điệu múa, lời ca, tiếng trống, tiếng chiêng vang lên rộn ràng, tạo nên bầu không khí vui tươi, gắn kết cộng đồng.
Thầy cúng buộc hoa mào gà trong nhà để thực hiện nghi thức cúng Tết. Ảnh: TTXVN phát
Bà Lò Thị Ý, người dân bản Nậm Kè, chia sẻ: Tết Hoa mào gà là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Cống. Bà con trong bản mong muốn lễ hội này được duy trì hằng năm để con cháu mai sau hiểu, trân trọng và tự hào hơn về bản sắc dân tộc mình.
Theo Chủ tịch UBND xã Nậm Kè Nguyễn Tiến Thành, những năm qua, đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung, đồng bào dân tộc Cống xã Nậm Kè nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước. Các chính sách đối với đồng bào dân tộc Cống đã đạt được kết quả quan trọng trên mọi lĩnh vực, như: Kinh tế có những bước tăng trưởng khá, đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng được nâng cao; công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống luôn được chú trọng, nhiều phong tục lễ hội cổ truyền được khôi phục và phát triển, trở thành điểm nhấn trong đời sống cộng đồng; trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng được giữ vững...
Hoa mào gà là biểu tượng trong ngày Tết cổ truyền của đồng bào dân tộc Cống. Ảnh: TTXVN phát
Đặc biệt, các Lễ hội của đồng bào dân tộc Cống cũng như các dân tộc thiểu số trên địa bàn đã được phục dựng và tổ chức thường xuyên; qua đó để đồng bào các dân tộc có thêm điều kiện được giao lưu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Các hoạt động về văn hóa góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển về kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn và khu vực.
Việc tổ chức lễ hội Tết Hoa mào gà không chỉ nhằm bảo tồn và tôn vinh di sản văn hóa quý báu của dân tộc Cống, mà còn góp phần thực hiện hiệu quả Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030. Đây cũng là bước cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc “bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch cộng đồng, tạo sinh kế bền vững cho người dân. Đây cũng là dịp để giới thiệu, quảng bá tiềm năng văn hóa, du lịch của xã Nậm Kè tới du khách trong và ngoài tỉnh.
Phụ nữ Cống biểu diễn văn nghệ trong ngày Tết Hoa mào gà. Ảnh: TTXVN phát
Ông Nguyễn Hoàng Hiệp, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên cho biết, Tết Hoa mào gà của người Cống đã được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Thời gian tới, tỉnh Điện Biên sẽ tiếp tục duy trì, phát huy giá trị của lễ hội, vừa bảo tồn văn hóa truyền thống, vừa thúc đẩy phát triển du lịch địa phương, tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng biên.
Qua Tết Hoa, tình cảm gia đình, đồng bào tiếp tục được vun đắp ngày càng bền vững, tạo thành một trong những nét đẹp văn hóa của người Cống, làm cho con người yêu thương, gắn bó với nhau hơn. Sau Tết Hoa, cuộc sống trong cộng đồng người Cống lại bắt đầu một chu trình mới với những tình cảm đầm ấm cùng biết bao niềm tin, hy vọng mới trong tương lai của mỗi gia đình, bản làng nơi biên giới./.
Tên tự gọi: Xắm khống, Phuy A.
Dân số: 2.029 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng) gần hơn với tiếng Miến, cùng nhóm với các tiếng La Hủ, Phù Lá, Si La... Họ quen sử dụng tiếng Thái trong giao dịch hàng ngày.
Lịch sử: Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương, đang chuyển sang làm nương cuốc, ruộng. Hái lượm còn giữ vai trò quan trọng. Người Cống không quen dệt vải, chỉ trồng bông để đổi lấy vải của các dân tộc khác. Họ giỏi đan chiếu mây nhuộm đỏ, các đồ đựng bằng tre nứa như gùi đeo, giỏ đựng cơm, rương hòm... Chuyển xuống định cư ven sông Ðà, nên người Cống quen dần với việc sử dụng thuyền trên sông.
Ăn: Người Cống ăn cơm nếp và cơm tẻ.
Mặc: Y phục của người Cống giống người Thái. Một ít gia đình còn giữ lại vài bộ y phục truyền thống bằng vải dệt của người Lào.
Ở: Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào, một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc theo vách mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ ít có giá trị sử dụng nhưng nhà nào cũng có là đặc trưng trong nhà người Cống.
Phương tiện vận chuyển: Người Cống quen sử dụng thuyền đi lại trên sông Ðà và gùi đeo qua trán khi đi nương, đi rẫy.
Quan hệ xã hội: Người Cống ở khá tập trung trong các làng bản có quy mô vừa và lớn. Tính cộng đồng làng bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình cũng như xã hội.
Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự phân hoá giai cấp, chịu sự chi phối chặt chẽ của hệ thống chức dịch người Thái.
Dân số ít song người Cống có tới 13 dòng họ khác nhau. Ða số các dòng họ mang tên Thái như: Lò, Quang, Kha... dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với tục kiêng và thờ các loại chim muông, thú vật. Mỗi dòng họ thường có người đứng đầu với chức năng chủ trì các công việc liên quan tới đời sống tinh thần.
Cưới xin: Hôn nhân một vợ một chồng chặt chẽ. Không có đa thê, ly dị trong xã hội truyền thống.
Tục ở rể được thực hiện nghiêm ngặt, trước kia khoảng 8 - 12 năm. Lễ vật truyền thống trong lễ xin con trai tới ở rể thường vào buổi tối là gói muối, gói chè, cuộn dây gai đan chài, hay một ống rượu cần... Ngay sáng hôm sau, người con trai mang chăn, gối, con dao tới nhà gái ở rể, cũng từ đó người con gái búi tóc ngược đỉnh đầu, dấu hiệu của người đã có chồng.
Lễ đón dâu về nhà trai khi hạn ở rể đã hết, lúc đó đôi vợ chồng đã con cái đầy nhà. Của hồi môn bố mẹ cho con cái mang về nhà chồng. Nếu nhà trai người cùng bản phải cõng cô dâu về tận nhà. Trong ngày cưới, người ta không mặc quần áo mới vì có tục vẩy nước tro lên đoàn đón dâu trước khi ra về để cầu may.
Sinh đẻ: Sản phụ đẻ ngồi. Trước và sau khi đẻ phải kiêng kỵ nhiều thứ. Người Cống rất giỏi trong việc tìm kiếm lá thuốc để chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.
Ma chay: Khi nhà có người chết, phải mời thầy mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc chọn ngày chôn được coi trọng. Trong những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng cơm cho người chết, buổi tối có các nghi thức nhảy múa truyền thống. Sau khi táng có làm nhà mồ đơn giản. Mười hai ngày sau khi chôn người chết, con cháu mới lập bàn thờ trong nhà. Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con gái) và đội khăn tang cho tới khi cúng cơm mới, mới được bỏ.
Thờ cúng: Cùng với việc cúng tổ tiên 2, 3 đời theo phụ hệ là việc cúng ma bố mẹ vợ vào dịp tết. Bố chủ trì việc cúng. Nếu bố chết, mẹ thay thế. Khi anh em chia nhà ra ở riêng, mỗi người con trai lập bàn thờ cúng riêng tại nhà mình. Lễ vật cúng tổ tiên chỉ có bát gạo, ống nước và con gà. Người cúng ôm gà ngồi trước bàn thờ khấn, xong giết gà ngay tại chỗ, bôi máu vào lá dong, gói lại cài lên vách nơi thờ cúng vài ba chiếc lông gà.
Hàng năm cứ đến tháng ba âm lịch, các bản đều tổ chức lễ cúng bản trước vụ gieo hạt, các ngả đường vào bản làm cổng, cắm dấu hiệu kiêng kỵ một ngày không ai được vào bản.
Các gia đình đều làm lễ cúng trên nương trước khi kết thúc công việc tra hạt. Ðêm đó chủ nhà làm lễ cúng ở phía trên lều nương; lễ vật chỉ có cá, cua, cầu mong chim thú không phá hại; trồng vài khóm kiệu cầu xin lúa tốt, xanh tươi như khóm cây này.
Học: Việc giáo dục truyền thống thông qua kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác kết hợp với thực hành.
Văn nghệ: Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là trong đám cưới. Hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang trước khi lên nhà thực sự là một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa trong ngày cưới. Ðặc biệt là điệu múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa, vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà, con sóc, cá khô mà người anh trai tặng mình.
Chơi: Các trò chơi tập thể như đuổi bắt, đánh khăng... được trẻ em ưa thích. Ngoài ra, chúng còn chơi các loại đồ chơi bằng tre gỗ tự chế.
Theo cema.gov.vn