Tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu trái cây Việt Nam

Tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu trái cây Việt Nam

Trái cây là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhiều tiềm năng phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể mở rộng thị trường trái cây hiệu quả, bền vững vẫn còn nhiều vấn đề cần cải thiện, đặc biệt là việc tuân thủ, đáp ứng tiêu chuẩn. Đây là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo “Nâng cao năng lực tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu trái cây Việt Nam” do Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) phối hợp với Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11/9.

Tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu trái cây Việt Nam ảnh 1Tỉnh Sơn La hiện có 300 ha thanh long trồng tập trung chủ yếu tại các huyện Mai Sơn, Thuận Châu, Yên Châu, Mộc Châu, sản lượng trung bình đạt 5.000 tấn/năm. Sản phẩm thanh long Sơn La đã khẳng định được chất lượng, uy tín với thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài, như Trung Quốc, Nga... Trong ảnh: Một vườn thanh long trồng ở tỉnh miền núi Sơn La. Ảnh: TTXVN phát

Ông Lê Văn Thiệt - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ Thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, trái cây là một trong những ngành nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu nông sản. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trái cây của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây đạt khoảng 10-15% mỗi năm. Khối lượng xuất khẩu rau quả tươi hằng năm ước đạt từ 3,3 tới gần 4 triệu tấn (chiếm khoảng 30% tổng sản lượng). Thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc, tiếp đến là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU...

Xét về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, thanh long, xoài, mít và chuối là bốn loại trái cây có khối lượng xuất khẩu lớn nhất chiếm khoảng 85% khối lượng xuất khẩu quả tươi. Về kim ngạch, sầu riêng đang là sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nhóm trái cây tươi (khoảng 1,1 tỷ USD trong 7 tháng, dự kiến đạt 1,7 tỷ USD năm 2023).

Theo ông Lê Văn Thiệt, việc đàm phát mở cửa thị trường đã giúp tăng trưởng khối lượng, đa dạng sản phẩm và thị trường xuất khẩu, đưa Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu trái cây hàng đầu tại khu vực Đông Nam Á và thế giới. Đồng thời, tạo động lực để người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu có sự đầu tư và cải tiến hệ thống sản xuất, chế biến, đóng gói, vận chuyển bảo đảm cung cấp ra thị trường các sản phẩm chất lượng, an toàn; đáp ứng các yêu cầu của nước nhập khẩu.

Tuy nhiên, xuất khẩu trái cây vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như hàng rào kỹ thuật, biến động của sinh vật gây hại, yêu cầu các biện pháp kiểm dịch thực vật, cạnh tranh quốc tế, phụ thuộc thị trường. Theo đó, tình trạng không tuân thủ các tiêu chuẩn có chiều hướng gia tăng. Nhận thức của người dân, doanh nghiệp còn theo tư duy buôn chuyến, chưa đầu tư nhiều, còn đối phó, chưa quan tâm đến chất lượng; đạo đức kinh doanh, trách nhiệm cộng đồng còn nhiều hạn chế, liên kết sản xuất – tiêu thụ chưa bền vững; tuyên truyền chưa phong phú, đa dạng, hấp dẫn.

Mặt khác, cơ sở hạ tầng bảo quản, logistics, hạ tầng về xử lý kiểm dịch thực vật vẫn chưa theo kịp với tốc độ phát triển. Ứng dụng chuyển đổi số còn chậm, chưa đồng bộ, hệ thống phần mềm giám sát sự tuân thủ, truy xuất nguồn gốc. Công nghệ bảo quản và phòng trừ sinh vật gây hại sau thu hoạch chưa có sự phối hợp chặt chẽ, chưa được quan tâm nghiên cứu bài bản.

Do đó, muốn thúc đẩy xuất khẩu trái cây, cần hoàn thiện, nâng cấp hệ sinh thái sẵn sàng xuất khẩu (các phần mềm cơ sở dữ liệu, e-training flatform, website) theo hướng đa dụng, thân thiện với người dùng. Hoàn thiện quy trình sản xuất một số sản phẩm trái cây chủ lực như sầu riêng, bưởi, xoài, chuối,... để phòng trừ triệt để sinh vật gây hại, nâng cao chất lượng sản phẩm, kéo dài thời gian bảo quản. Song song đó, hoàn thiện hướng dẫn thiết lập, kiểm soát và quản lý cơ sở đóng gói, vùng trồng các loại trái cây chủ lực; tiếp tục nghiên cứu biện pháp xử lý kiểm dịch thực vật theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

Tuân thủ tiêu chuẩn, chất lượng để thúc đẩy xuất khẩu trái cây Việt Nam ảnh 2Đồng Tháp đang có diện tích xoài lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long với hơn 13.995 ha, sản lượng trên 185.940 tấn/năm, tập trung nhiều ở thành phố Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh, huyện Thanh Bình... trồng nhiều nhất là xoài cát Chu, Hòa Lộc và xoài Đài Loan. Nhiều giải pháp kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm xoài như: sản xuất theo quy trình VietGAP, GlobalGAP, an toàn thực phẩm, theo hướng hữu cơ… Hiện tại, xoài của tỉnh Đồng Tháp ngoài tiếp cận kênh thị trường các chợ truyền thống, chợ đầu mối, kênh phân phối hiện đại trong nước và thị trường ngoài nước như Hà Lan, Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Canada, Úc, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc... Trong ảnh: Thu hoạch và đóng gói xoài đưa đi tiêu thụ của nhà vườn trồng xoài ở huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp). Ảnh: Nguyễn Văn Trí - TTXVN

Ông Bahramalian Nima, Giám đốc Dự án Chương trình tiêu chuẩn, chất lượng UNIDO thông tin, tổng số trường hợp bị từ chối quả và quả hạch xuất khẩu của Việt Nam sang 5 thị trường lớn (Australia, Trung Quốc, EU-28, Nhật Bản, Mỹ) đã tăng 42% từ 24 trường hợp năm 2010 lên 34 trường hợp vào năm 2020; trong đó, thị trường Mỹ có tỷ lệ bị từ chối lớn nhất (67%), Australia, Trung Quốc và EU có tỷ lệ bị từ chối tương đương nhau (8-13%).

Nguyên nhân chính của các trường hợp bị từ chối của Việt Nam năm 2020 là nhiễm khuẩn (22%) và điều kiện/kiểm soát vệ sinh (18%). Các nguyên nhân khác gồm dư lượng thuốc thú y (13%), ghi nhãn (14%), dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (10%) và phụ gia (7%).

“Việt Nam cần tăng cường năng lực về kỹ thuật đánh giá cũng như kiểm soát an toàn, vệ sinh để tuân thủ quy định quốc tế đối với các nguyên nhân bị từ chối chính đã nêu trên. Theo đó, cần tăng cường hệ thống giám sát an toàn thực phẩm quốc gia và phối hợp với tất cả các bên liên quan huy động biện pháp kiểm soát chính thức. Đồng thời, cần cải thiện năng lực kiểm soát chất lượng của công chức cũng như nông dân bằng cách cung cấp các khóa đào tạo về phân tích rủi ro vệ sinh thực phẩm và học cách áp dụng thực hành sản xuất tốt (GMP) và thực hành vệ sinh Tốt (GHP) trong các chuỗi thực phẩm khác nhau - ông Bahramalian Nima khuyến nghị.

Liên quan đến truy xuất nguồn gốc, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tập trung cải thiện tính minh bạch dọc theo chuỗi thực phẩm để tăng cường phát hiện sự hiện diện của thực phẩm không an toàn. Việt Nam cũng cần phải xác minh việc tuân thủ các thực hành nông nghiệp tốt và phát hiện các hành vi gian lận. Để cải thiện việc quản lý thuốc bảo vệ thực vật, các nhà xuất khẩu thương mại nông sản có thể hợp tác với chuyên gia bảo vệ thực vật nhằm tạo ra và phổ biến công nghệ bảo vệ thực vật hiệu quả hơn.

Chia sẻ kinh nghiệm thực tế, bà Nguyễn Nam Phương Thảo - Giám đốc Kinh doanh, Công ty Hoàng Phát Fruit cho biết, để đáp ứng tiêu chuẩn, chất lượng của thị trường xuất khẩu, công ty thường xuyên có chương trình đào tạo nông dân, hợp tác xã đang cung cấp nguyên liệu về những yêu cầu mới và mong muốn về chất lượng sản phẩm để kiểm soát nghiêm ngặt quy trình trong toàn chuỗi; đào tạo công nhân nhà máy trong việc kiểm soát tốt hơn nhiệt độ, xử lý nấm bệnh trong quá trình sơ chế. Nhờ đó, nông dân, hợp tác xã cung cấp nguyên liệu đã hiểu rõ hơn về vấn đề kỹ thuật và yêu cầu chất lượng; việc hợp tác được thực hiện lâu dài, đảm bảo yếu tố lợi nhuận và bền vững cho các bên. Chất lượng trái cây tốt hơn, đặc biệt là kiểm soát được nấm bệnh, giảm tỷ lệ từ 10 - 12% xuống 3 - 5%, có lô hàng 0%.

Để cải thiện năng lực đáp ứng tiêu chuẩn, chất lượng của trái cây, bà Nguyễn Nam Phương Thảo kiến nghị cơ quan, đơn vị đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng giống trái cây có khả năng chống bệnh, dễ bảo quản, vận chuyển và phù hợp với từng thị trường tiêu thụ tươi hoặc sản phẩm chế biến. Nhà nước cần đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, cầu cảng, đặc biệt là hệ thống kho mát, logistics hiện đại, đồng bộ để giảm chi phí vận chuyển. Đồng thời, có chính sách thu hút nhà đầu tư về lĩnh vực nông nghiệp, tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp.

Xuân Anh

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.