Chiều 3/11, tại sông Long Bình (phường Long Đức và Hòa Thuận), Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long tranh cúp 620 Châu Thới năm 2025 được khai mạc. Đây là hoạt động trọng điểm chào mừng Lễ hội Ok Om Bok năm 2025, một trong số lễ hội lớn của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long năm nay thu hút gần 1.000 vận động viên đến từ các xã, phường trong tỉnh gồm: Cầu Ngang, Châu Thành, Cầu Kè, Trà Cú, Bình Phú, Tiểu Cần, Ngãi Tứ, Ngũ Lạc và phường Trà Vinh.
Mỗi địa phương có 2 đội ghe gồm đội nam và đội nam, nữ phối hợp tranh tài ở 3 nội dung: Cự ly 1.000m nam, 800m nam và 800m nam - nữ phối hợp. Các trận đấu được tổ chức theo hình thức loại trực tiếp, từ vòng loại vào tứ kết, bán kết và chung kết để xác định đội vô địch.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long trao cờ lưu niệm cho các đội tham gia Giải.
Phát biểu khai mạc, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long Cao Quốc Dũng cho biết, đua ghe Ngo là một trong những hoạt động sôi nổi, hấp dẫn, mang đậm nét đẹp truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Sự kiện văn hóa thể thao độc đáo này là dịp để đồng bào Khmer thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết và bản sắc văn hóa đặc sắc của dân tộc. Đua ghe Ngo được tỉnh duy trì tổ chức hằng năm, đúng vào dịp lễ hội Ok Om Bok, không chỉ nhằm phục vụ bà con Khmer địa phương mà còn mang đến không gian vui chơi, giải trí ý nghĩa cho đông đảo du khách.
Qua Giải đua, tỉnh Vĩnh Long mong muốn thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc, các địa phương, góp phần hiệu quả vào công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đặc biệt, Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long năm nay có tổng giá trị giải thưởng cao nhất từ trước đến nay, khẳng định quy mô và sự quan tâm đặc biệt của tỉnh dành cho bộ môn thể thao truyền thống này. Ở nội dung 1.000m nam, đội đoạt ngôi vô địch nhận thưởng 200 triệu đồng. Mức thưởng ở các nội dung khác cũng rất hấp dẫn: hạng Nhất cự ly 800m nam và 800m nam - nữ phối hợp được thưởng 60 triệu đồng; hạng Nhì cự ly 1.000m nam được thưởng 80 triệu đồng, các cự ly 800m nam và 800m nam - nữ 40 triệu đồng; hạng Ba cự ly 1.000m nam 60 triệu đồng, hai nội dung còn lại 20 triệu đồng. Ngoài ra, Ban Tổ chức còn trao giải khuyến khích cho ba nội dung với mức thưởng 5 triệu đồng mỗi đội.
Các đội nam tranh tài cự ly 1.000m.
Ngay sau lễ khai mạc, khán giả được thưởng thức những màn tranh tài quyết liệt giữa các đội nam ở nội dung thi đấu ghe nam cự ly 1.000m.
Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long tranh cúp 620 Châu Thới sẽ diễn ra trong 2 ngày 3 - 4/11.
Theo truyền thống, đua ghe Ngo là môn thể thao dân gian thể hiện tinh thần đoàn kết. Tiếng trống, tiếng hò reo vang dội trong ngày hội như khơi dậy sức mạnh, tinh thần đồng đội và niềm tự hào dân tộc./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn