Từ ngày 21 đến 23/9, đồng bào Khmer Nam Bộ tổ chức lễ Sene Dolta (còn gọi là lễ Sen Dolta, hay Sen Đôn-ta) một trong những lễ truyền thống quan trọng trong năm. Với nghi thức tôn giáo trang nghiêm và phong tục đặc sắc, lễ hội thể hiện đậm nét đời sống tinh thần, tín ngưỡng và truyền thống hiếu đạo của người Khmer, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Thượng tọa Lâm Tú Linh, Phó Trụ trì chùa Mahatup (TP Cần Thơ) cho biết: Trong lễ đặt cơm vắt, đồng bào Phật tử Khmer luân phiên mang lễ vật đến chùa để dâng cúng, hồi hướng phước báu cho ông bà, tổ tiên và các vong linh không nơi nương tựa, các hạng ngạ quỷ. Nghi lễ này còn gọi là Pchum Ben.
Các nghi thức Pchum Ben được tổ chức liên tục từ ngày 1 rôch đến ngày 15 rôch tháng Phôt T’rô Bot (theo âm lịch Khmer), tương ứng với khoảng giữa tháng 9 dương lịch. Lễ Pchum Ben khép lại bằng lễ Sene Dolta với nhiều nghi thức truyền thống trang nghiêm.


Đây là dịp để bà con trong các phum sóc và dòng tộc củng cố tình cảm gia đình, tăng cường gắn kết cộng đồng, thắt chặt mối quan hệ giữa các thế hệ; đồng thời góp phần gìn giữ các giá trị truyền thống, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong không khí vui tươi, đầm ấm.
"Tuy nhiên, quý Phật tử Khmer xin đừng quên hai người đã sinh thành và dưỡng dục để chúng ta có được ngày hôm nay, đó chính là cha mẹ, những “vị Phật sống” trong ngôi nhà của mình. Trước khi mang cơm dâng lên chư Tăng ở chùa, hãy nhớ làm phước, phụng dưỡng và báo hiếu cha mẹ trước tiên. Bởi hiếu hạnh chính là nền tảng của mọi công đức", thượng tọa Lâm Tú Linh nói.

Ngày Pchum Thom, hay còn gọi ngày giỗ hội, là dịp quan trọng để con cháu trong gia đình Khmer thăm viếng ông bà, cha mẹ còn sống, dâng tặng trái cây, bánh kẹo và tiền. Sau đó, các gia đình trở về nhà chuẩn bị mâm cúng tưởng nhớ ông bà, cha mẹ và tổ tiên những người đã khuất. Đây được xem là ngày lễ chính thức đầu tiên trong lễ Sene Dolta - còn gọi là “ngày đón ông bà”, mang đậm nét văn hóa tâm linh của cộng đồng Khmer Nam Bộ.
Vào ngày lễ chính thứ hai của lễ Sene Dolta, từ sáng sớm, bà con Phật tử Khmer đã chuẩn bị vật thực mang đến chùa để dâng lên chư tăng, sau đó cùng nhau dùng cơm trong không khí đầm ấm tại chùa. Trong khuôn viên ngôi chùa của phum sóc, mọi người cùng tham gia các trò chơi dân gian, múa hát những điệu múa truyền thống như rom-vong, lăm-liêu, sa-ra-van… tạo nên không khí lễ hội rộn ràng, vui tươi và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.


Vào ngày cuối cùng của lễ Sene Dolta, bà con Phật tử Khmer tổ chức nghi lễ tiễn ông bà, tổ tiên về cõi giới bằng cách thả thuyền nhỏ làm từ bẹ chuối. Trên thuyền có cắm cờ phướn nhiều màu sắc mô phỏng hình cá sấu, cùng hình nộm và các lễ vật như gạo, mè, muối, tiền mã...
Sau khi thắp nhang khấn vái, thả thuyền trôi theo dòng nước sông, kênh, rạch gần nhà, gọi là nghi thức "tiễn đưa ông bà". Nghi lễ này thể hiện lòng tri ân sâu sắc của con cháu đối với tổ tiên, đồng thời khép lại mùa lễ Sene Dolta trong không khí trang nghiêm mà đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.


Trước đó, nhân dịp lễ Sene Dolta năm 2025 của đồng bào Khmer, chính quyền địa phương đã tổ chức các đoàn đến thăm, chúc mừng và tặng quà Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước, các vị sư sãi, ban quản trị chùa, người có uy tín, phật tử Khmer và các gia đình chính sách tiêu biểu tại TP Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long cùng nhiều địa phương khác. Các đoàn đã gửi lời chúc mừng tốt đẹp đến đồng bào Khmer đón lễ Sene Dolta vui tươi, đầm ấm, đoàn kết.


Bà Thạch Thị Kim Sang, ngụ tại khóm 5, phường Phú Lợi, TP Cần Thơ cho biết: “Cứ mỗi dịp lễ Sene Dolta, tôi rất vui vì con cháu tụ họp đông đủ, cùng nhau nấu những món ăn truyền thống để cúng ông bà, tổ tiên, đặc biệt là trong ngày tiễn đưa ông bà”.


Không khí đầm ấm, vui tươi của lễ Sene Dolta 2025 tiếp tục khẳng định tinh thần đoàn kết, gắn bó của đồng bào Khmer Nam Bộ, góp phần xây dựng đời sống văn hóa phong phú và bền vững trong cộng đồng.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
