Gìn giữ nét đẹp văn hóa trong tranh thờ người Dao

Ông Thanh thường xuyên phải kiểm tra, bảo quản những bức tranh thờ cổ của người Dao. Ảnh: Nam Sương - TTXVN
Ông Thanh thường xuyên phải kiểm tra, bảo quản những bức tranh thờ cổ của người Dao. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

Nghệ nhân dân gian Lê Hải Thanh sinh năm 1944, dân tộc Dao Quần Trắng ở thôn Đá Bàn 1, xã Mỹ Bằng (Yên Sơn) say mê học chữ Nôm Dao, vẽ tranh thờ từ khi còn nhỏ. Ông là một trong số ít người trong cộng đồng người Dao hiện nay biết vẽ tranh thờ. Chính vì thế nhiều năm qua, người Dao ở nhiều nơi như Yên Bái, Hà Giang, Phú Thọ…đều tìm đến nhờ ông vẽ một bộ tranh để đặt trang trọng trên bàn thờ tổ tiên.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa trong tranh thờ người Dao ảnh 1Ông Thanh đam mê, gắn bó với những tư liệu cổ của người Dao. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

Ngay từ khi mới 12 tuổi, ông Thanh đã học chữ Nôm Dao, vẽ tranh thờ. Ông tận dụng mọi lúc mọi nơi để luyện từng nét chữ, nét vẽ. Cả khi chăn trâu, lên nương làm rẫy, nấu cơm…, ông đều tranh thủ vẽ ra lá cây, nền đất hay thân cây. Năm 2019, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa trong tranh thờ người Dao ảnh 2 Nghệ nhân dân gian Lê Hải Thanh luôn tâm huyết với việc gìn giữ, bảo tồn tranh thờ cổ của người Dao. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

Để trở thành thầy vẽ tranh là cả một quá trình vừa học vừa rèn luyện không biết mệt mỏi. Ông Thanh cho biết, chính sự tôn nghiêm của tranh thờ nên ngay từ khi vào nghề, ông luôn cố gắng trau dồi tu dưỡng bản thân để xứng với công việc cao quý này. Theo quan niệm người Dao, nếu thầy vẽ tranh vi phạm bất cứ chuẩn mực đạo đức nào trong cuộc sống, tác phẩm tạo ra không còn ứng nghiệm và không có giá trị nữa.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa trong tranh thờ người Dao ảnh 3 Ông Thanh thường xuyên phải kiểm tra, bảo quản những bức tranh thờ cổ của người Dao. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

Anh Đặng Văn Chiển, thôn Đá Bàn 1, xã Mỹ Bằng (huyện Yên Sơn, Tuyên Quang) đã theo học vẽ tranh thờ gần 20 năm chia sẻ, học vẽ tranh thờ khó nhất là phần hồn và để thể hiện đúng thần thái của từng bức tranh, các vị thần là điều không đơn giản, phải có sự tập trung cao. Các bức tranh là hiện thân của các thần linh, việc tái hiện hình ảnh các vị thần là việc làm cẩn trọng, linh thiêng. Quá trình vẽ phải tuân thủ nhiều quy tắc, những điều cần tránh về mặt tâm linh.

Theo tục lệ, thời điểm vẽ tranh thờ thường vào tiết trời mùa Thu hoặc mùa Xuân. Cùng với đó, người Dao phải chọn ngày đẹp trước khi vẽ tranh và xin phép tổ tiên, các vị thần chứng giám tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện.

Không gian vẽ là một góc làm việc luôn phải sắp xếp gọn gàng với những đồ dùng bút lông, hộp màu và giấy dó, vải. Đây là thế giới linh thiêng, duy chỉ có thầy làm việc, những người khác phải được sự cho phép mới được vào… Đặc biệt, bất cứ ai đến gần tranh đang vẽ luôn phải giữ cho thân thể, tâm hồn thanh sạch, thoải mái tinh thần.

Để vẽ tranh thờ, người Dao pha chế 5 màu (xanh, đỏ, tím, vàng, trắng) thành 12 màu theo độ đậm nhạt khác nhau. Mỗi màu mang ý nghĩa riêng, điển hình như: màu đỏ là màu chủ đạo, tượng trưng cho sức mạnh và cái đẹp cùng niềm vui trong cuộc sống; màu vàng tượng trưng sự uy nghi, quyền lực; màu tím để thể hiện những nét vẽ linh thiêng, huyền bí đầy quyền năng; màu xanh là biểu tượng sự hài hòa, nảy nở, sinh sôi phát triển trong thế giới tâm linh…

Theo ông Thanh, tranh thờ của người Dao Quần Trắng có hai loại, đó là tranh mặt nạ và các bộ tranh truyền thần. Tranh mặt nạ vẽ diện mạo của các vị thần trong một khuôn giấy có kích cỡ 30 x 40 cm. Loại tranh này chỉ dùng thực hành trong nghi lễ cấp sắc Tam Nguyên. Các thầy cúng, đệ tử… đeo lên mặt, lên trán để thần thánh chứng giám.

Còn bộ tranh truyền thần gồm 11 bức tranh, được sử dụng trong hầu hết các nghi lễ người Dao như: cấp sắc Tam Nguyên, Tam Bảo, đám chay, đám ma, cầm đầu ma… Dòng tranh này có bố cục lạ, hẹp, dài, với dày đặc các nhân vật thần linh. Các nhân vật này lại tuân theo một quy tắc xã hội, nhân vật nào có quyền năng lớn được vẽ to, chiếm vị trí trung tâm, còn các thần ít quyền năng hơn thì được vẽ đơn giản, kích thước nhỏ.

Gìn giữ nét đẹp văn hóa trong tranh thờ người Dao ảnh 4 Những bức tranh thờ của người Dao luôn mang nhiều mầu sắc và chi tiết. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

Mỗi bức tranh có nét vẽ riêng tái hiện thần thái của các vị thần. Ví dụ như: sắc mặt hiền lành, từ bi của Quan Thế Âm Bồ Tát; sắc mặt điềm đạm, đôn hậu, bao dung của Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên; nét nghiêm nghị, hung dữ của Triệu Nguyên Soái, Đặng Nguyên Soái, Mã Nguyên Soái, Quan Nguyên Soái… Cái khó và mất thời gian nhất đó là vẽ mắt, lông mày, mũi, râu… Người vẽ phải vận dụng trí nhớ, kinh nghiệm cũng như cách cảm nhận về thế giới siêu nhiên mới vẽ chuẩn xác được. 

Ông Tống Đại Hồng, nhà nghiên cứu Văn hóa dân gian, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Tuyên Quang cho biết, ông Lê Hải Thanh thực sự là một nghệ nhân, một kho tàng sống về tranh thờ cũng như văn hóa tín ngưỡng lâu đời của đồng bào Dao. Tranh thờ người Dao còn có ý nghĩa đặc biệt, đó là mang giá trị giáo dục đầy tính nhân văn. Nhìn vào mỗi bức tranh thờ của người Dao có thể thức tỉnh tâm hồn con người. Người Dao quan niệm rằng các vị thần linh luôn nhìn thấu mọi việc và sẵn sàng phạt người nào làm những việc ác, việc sai trái. Bên cạnh nét tâm linh về mặt thờ cúng, tranh thờ còn gửi đến thông điệp cho con cháu về nguồn cội, gốc tích của người Dao.

Tâm huyết với việc lưu giữ, bảo tồn và duy trì những tư liệu, văn hóa tín ngưỡng của người Dao, ông Thanh không quên đi tâm nguyện được truyền đạt lại kiến thức, kinh nghiệm của mình cho thế hệ mai sau. Ông luôn tâm niệm rằng, tranh thờ là một báu vật của người Dao, ai cũng phải có trách nhiệm gìn giữ và lưu truyền đến muôn đời sau để văn hóa Dao luôn trường tồn cùng thời gian.

Nam Sương

(TTXVN)
Dân tộc Dao

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.


Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Dao

Có thể bạn quan tâm

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

Giữa miền quan họ mượt mà câu hát, tiếng đàn tính của người Tày, Nùng vang lên như một nét riêng trong bức tranh văn hóa Kinh Bắc. Mỗi làn điệu Then cất lên là một nhịp nối giữa quá khứ và hiện tại, mang theo tình yêu quê hương và khát vọng gìn giữ cội nguồn. Trong nhịp sống hiện đại, những người con nơi đây vẫn lặng lẽ “giữ lửa”, để làn điệu Then tiếp tục ngân vang giữa miền di sản thắm tình người quan họ.

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Sáng 21/10, đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại Khánh Hòa và Lâm Đồng cùng du khách thập phương nô nức tham dự Lễ hội Katê năm 2025 - một sự kiện văn hóa truyền thống quan trọng nhất trong năm của người Chăm.

Nhiều hoạt động chào mừng Lễ hội Katê

Nhiều hoạt động chào mừng Lễ hội Katê

Nhằm tôn vinh bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào Chăm, tỉnh Khánh Hòa tổ chức nhiều hoạt động đặc sắc chào mừng Lễ hội Katê năm 2025 diễn ra trong 3 ngày (từ 20 - 22/10). Sự kiện không chỉ là dịp để cộng đồng người Chăm theo đạo Bàlamôn thể hiện lòng biết ơn các vị thần linh và tổ tiên, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi mà còn là cơ hội quảng bá văn hóa, du lịch địa phương.

Đánh thức tiềm năng du lịch đập thủy lợi Phước Hòa

Đánh thức tiềm năng du lịch đập thủy lợi Phước Hòa

Không chỉ là nơi điều tiết, cung cấp nước ngọt cho cả vùng rộng lớn, đập thủy lợi Phước Hoà (xã Nha Bích, tỉnh Đồng Nai) với diện tích hơn 2.000 ha được đánh giá có tiềm năng lớn để phát triển du lịch. Tuy nhiên, đến nay khu vực này mới ở dạng tiềm năng, cần được "đánh thức" để phát triển xứng tầm.

Tết Trung thu nơi phên giậu của Tổ quốc

Tết Trung thu nơi phên giậu của Tổ quốc

Những ngày đầu tháng 10, khi không khí Tết Trung thu lan tỏa khắp nơi, tại các xã biên giới của tỉnh Gia Lai, tiếng trống múa lân, lời ca tiếng hát của các em nhỏ lại rộn ràng vang lên giữa núi rừng.

Đánh thức giá trị di sản bằng công nghệ

Đánh thức giá trị di sản bằng công nghệ

Tây Ninh được biết đến là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa đồng thời sở hữu kho tàng di sản phong phú với 223 di tích được xếp hạng từ cấp quốc gia đặc biệt đến cấp tỉnh, cùng 14 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và một di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Những giá trị quý báu ấy đang từng ngày được “đánh thức” và lan tỏa mạnh mẽ nhờ ứng dụng công nghệ số, mở ra hướng đi mới trong bảo tồn, phát huy di sản, đồng thời hòa nhịp cùng dòng chảy phát triển trong kỷ nguyên số.

Phát triển du lịch xanh gắn với văn hóa bản địa

Phát triển du lịch xanh gắn với văn hóa bản địa

Sau sáp nhập, tỉnh Vĩnh Long trở thành vùng đất giàu tiềm năng về du lịch nhờ vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên phong phú và bản sắc văn hóa đặc trưng. Địa phương đang từng bước khẳng định vị thế là trung tâm du lịch của vùng Tây Nam Bộ.

Lâm Đồng chú trọng dạy tiếng Chăm, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa

Lâm Đồng chú trọng dạy tiếng Chăm, góp phần bảo tồn giá trị văn hóa

Tại tỉnh Lâm Đồng, nơi có đông đồng bào Chăm sinh sống, công tác dạy tiếng Chăm trong trường học vùng dân tộc thiểu số đang được chú trọng triển khai. Đây không chỉ là bước đi quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng người Chăm, mà còn góp phần hỗ trợ học sinh nâng cao kỹ năng ngôn ngữ, đặc biệt là trong học tiếng Việt và tiếp cận kiến thức mới một cách hiệu quả hơn.

Phát huy giá trị Lễ hội Thành Tuyên

Phát huy giá trị Lễ hội Thành Tuyên

Sức ảnh hưởng của Lễ hội Thành Tuyên ngày càng lớn và có sự lan tỏa rộng rãi, thu hút hàng nghìn người tham gia mỗi năm. Bên cạnh thành công đó, Lễ hội Thành Tuyên 2025 cũng ghi nhận một số ý kiến trái chiều, phản án liên quan đến các hoạt động rước diễu.

Sôi nổi Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số

Sôi nổi Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số

Ngày 25/9, tại Nhà thi đấu Thể dục Thể thao tỉnh Thái Nguyên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc Ngày hội thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên năm 2025 với hai môn thi đấu: Tung còn và Bắn nỏ.

Triển lãm hơn 230 hình ảnh, tư liệu quý về Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk

Triển lãm hơn 230 hình ảnh, tư liệu quý về Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk

Ngày 25/9, chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ I và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tại Bảo tàng tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh khai mạc Triển lãm chuyên đề “Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk - Những chặng đường lịch sử”.

Đồng bào Khmer đón lễ Sene Dolta 2025 trong không khí vui tươi và đầm ấm

Đồng bào Khmer đón lễ Sene Dolta 2025 trong không khí vui tươi và đầm ấm

Từ ngày 21 đến 23/9, đồng bào Khmer Nam Bộ tổ chức lễ Sene Dolta (còn gọi là lễ Sen Dolta, hay Sen Đôn-ta) một trong những lễ truyền thống quan trọng trong năm. Với nghi thức tôn giáo trang nghiêm và phong tục đặc sắc, lễ hội thể hiện đậm nét đời sống tinh thần, tín ngưỡng và truyền thống hiếu đạo của người Khmer, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Ấm áp lễ Sene Dolta 2025 của đồng bào Khmer tại TP Hồ Chí Minh

Ấm áp lễ Sene Dolta 2025 của đồng bào Khmer tại TP Hồ Chí Minh

Những ngày cuối tháng 9, cộng đồng người Khmer tại TP Hồ Chí Minh lại hòa mình vào không khí ấm cúng của lễ Sene Dolta 2025. Sene Dolta là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm, không chỉ thể hiện lòng thành kính đối với tổ tiên mà còn là dịp để những người con xa quê tìm về chốn thiền môn, thắt chặt tình đoàn kết và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

Đồng bào Khmer hướng về cội nguồn, nhớ ơn tổ tiên

Đồng bào Khmer hướng về cội nguồn, nhớ ơn tổ tiên

Trong ngày 21-22/9, đông đảo đồng bào Khmer tại tỉnh Đồng Nai và nhiều địa phương khác đã về Chùa Sóc Lớn, xã Lộc Hưng, tham dự lễ Sene Dolta - lễ hội mang ý nghĩa tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã khuất.

Đặc sắc đêm lễ hội đường phố ở Điện Biên

Đặc sắc đêm lễ hội đường phố ở Điện Biên

Nằm trong chuỗi hoạt động của Festival Tinh hoa Tây Bắc - Điện Biên năm 2025, tối 20/9, đã diễn ra lễ hội đường phố nhằm mang đến một không gian nghệ thuật nhiều màu sắc, với các màn trình diễn dân ca, dân vũ, trang phục truyền thống và các kỹ nghệ dân gian. Chương trình được thiết kế là sân khấu mở, nơi du khách và người dân có thể giao lưu, trải nghiệm và cảm nhận chiều sâu văn hóa vùng cao.

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Độc đáo Hội đua bò Bảy Núi tỉnh An Giang năm 2025

Ngày 20/9, tại sân đua bò xã Tri Tôn (Khu Liên hợp Thể thao - Du lịch Tà Pạ - Soài Chek), Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh An Giang phối hợp với Báo và Phát thanh - Truyền hình An Giang, UBND xã Tri Tôn tổ chức Hội đua bò Bảy Núi tranh cúp Truyền hình An Giang lần thứ 30, năm 2025. Đây là sự kiện văn hóa – thể thao đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer vùng Bảy Núi tỉnh An Giang vào dịp lễ Sen Đôn Ta (lễ cúng ông bà) của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ.

Đặc sắc Festival Tinh hoa Tây Bắc

Đặc sắc Festival Tinh hoa Tây Bắc

Sáng 19/9, tại Quảng trường 7/5 (phường Điện Biên Phủ) đã khai mạc nhiều hoạt động trong khuôn khổ Festival Tinh hoa Tây Bắc - Điện Biên 2025 gồm: Triển lãm ảnh đẹp du lịch, Trưng bày giới thiệu điểm đến du lịch đặc sắc và Liên hoan ẩm thực Tây Bắc...

Giữ hồn những mái nhà rêu phong dưới chân Tây Côn Lĩnh

Giữ hồn những mái nhà rêu phong dưới chân Tây Côn Lĩnh

Ẩn mình dưới dãy Tây Côn Lĩnh hùng vĩ, làng rêu Xà Phìn, xã biên giới Thanh Thủy (Tuyên Quang) hiện ra như một bức tranh thủy mặc. Những nếp nhà sàn lợp lá cọ phủ kín rêu xanh, hòa quyện cùng mây trắng, ruộng bậc thang và những gốc chè Shan Tuyết cổ thụ, tạo nên vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính, rất riêng của miền biên viễn.

Bảo tàng cổ vật Mũi Né lưu giữ và lan tỏa giá trị di sản văn hóa

Bảo tàng cổ vật Mũi Né lưu giữ và lan tỏa giá trị di sản văn hóa

Giữa làng biển yên bình thuộc phường Mũi Né, tỉnh Lâm Đồng, có một địa chỉ văn hóa đặc biệt - Bảo tàng cổ vật Mũi Né, do nhà sưu tầm Nguyễn Ngọc Ẩn sáng lập và vận hành. Đây được xem là bảo tàng cổ vật tư nhân đầu tiên tại vùng ven biển của tỉnh, nơi không chỉ lưu giữ hàng chục nghìn hiện vật quý giá mà còn góp phần giáo dục cộng đồng, quảng bá văn hóa và phát triển du lịch bền vững.

Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI năm 2025 diễn ra tại tỉnh Khánh Hòa

Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI năm 2025 diễn ra tại tỉnh Khánh Hòa

Ngày 11/9, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cho biết, Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI năm 2025 sẽ diễn ra tại tỉnh Khánh Hòa từ ngày 17-19/10/2025, với sự tham gia của 6 tỉnh, thành phố gồm: Khánh Hòa, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Đồng, An Giang và Thành phố Hồ Chí Minh.