Nghề rèn truyền thống của người Tơ Đrăh

Nghề rèn truyền thống của người Tơ Đrăh
Từ truyền thuyết nghề rèn...
 
Ðến nay, vẫn chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định nguồn gốc và thời gian xuất hiện nghề rèn của người Xơ Ðăng trong không gian của văn hóa Tây Nguyên. Họ đã tự học, sáng tạo hay họ đã học tập nghề rèn của ai và từ bao giờ. Từ bao đời nay nơi đây tồn tại một truyền thuyết về con dao thần của A Wư đuổi được ma rừng.

Chuyện kể rằng, làng của người Tơ Ðrăh là những ngôi nhà sàn được dựng lưng chừng đồi núi, vừa tránh thiên tai khi mưa lũ vừa tránh được thú dữ trên rừng. Cuộc sống của dân các làng đang yên ả thì bỗng một hôm, một cơn gió lớn đủ sức thổi tốc mái nhà rông mang theo con ma rừng có tiếng kêu réo nghe đau đầu, tức ngực. Con ma mang lại dịch bệnh cho dân làng. Họ ngày càng ốm yếu, xanh xao, từ từ chết dần giữa tình thương yêu của lũ làng.

Các trưởng làng cùng nhau cử thanh niên, trai tráng, những người có sức khoẻ đi bắt con ma rừng để bảo vệ tộc người Tơ Ðrăh. Nhưng những lần vây bắt ma rừng đều không thành. Con ma rừng thường ẩn vào cây rừng lớn lưng chừng núi mà vũ khí của những thanh niên Tơ Ðrăh lúc đó chỉ có dao rựa và búa sắt, mỗi khi chém vào cây rừng, nơi có con ma ẩn nấp đều bị sứt mẻ.

Cũng không bắt được ma rừng như thanh niên các làng khác, chàng A Wư ở làng Wang Niôm mệt mỏi ngủ lại ngay trên cây trong rừng. Giữa giấc ngủ vùi mệt nhọc, chàng A Wư được một con chim rừng bảo phải dùng cây rừng loăng rlinh đốt lửa để rèn vũ khí thì mới giết được ma rừng. Nhưng cây loăng rlinh chỉ để rèn còn không được dựng nhà, không được dùng vào bất kỳ việc gì khác. Nếu không sẽ mất thiêng.

A Wư mang chuyện giấc mơ kể cho buôn làng nghe và dân làng đã giúp chàng tìm loại cây này để rèn vũ khí. Và cũng nhờ vũ khí này mới giết được ma rừng, mang lại no ấm cho các buôn làng tộc người Tơ Ðrăh.

Và cũng từ truyền thuyết này, trong 5 nhánh dân tộc Xê Ðăng khu vực Bắc Tây Nguyên, tộc người Tơ Ðrăh nổi tiếng với nghề rèn. Người đàn ông Tơ Ðrăh tài giỏi phải biết làm chiếc rựa sắc, không mẻ để có thể khuất phục được cây rừng.
 
Theo truyền thống, lò rèn Tơ Niam Pi Pu gồm có bễ hơi được làm bằng da mang (kea chiêu), ống bễ bằng gỗ (tê tê), ống dẫn hơi bằng nứa (rơ vang) và ống dẫn hơi chịu lửa dẫn ra lò (rơ chông) và lò nung (kloh tơ niam).
Theo truyền thống, lò rèn Tơ Niam Pi Pu gồm có bễ hơi được làm bằng da mang (kea chiêu), ống bễ bằng gỗ (tê tê), ống dẫn hơi bằng nứa (rơ vang) và ống dẫn hơi chịu lửa dẫn ra lò (rơ chông) và lò nung (kloh tơ niam).

…đến bí quyết rèn truyền thống

Ðể nung được quặng và rèn sản phẩm, người Tơ Ðrăh dựng lò rèn làm từ da con mang mà người dân gọi là Tơ Niam Pi Pu. Theo truyền thống, lò rèn Tơ Niam Pi Pu gồm có bễ hơi được làm bằng da mang (kea chiêu), ống bễ bằng gỗ (tê tê), ống dẫn hơi bằng nứa (rơ vang) và ống dẫn hơi chịu lửa dẫn ra lò (rơ chông) và lò nung (kloh tơ niam).

Người Xơ Ðăng Tơ Ðrăh ở Ngọc Tem (Kon Plông, Kon Tum) dùng đất sét chịu nhiệt tốt đắp dạng hình vòm, làm thành bễ lộ thiên. Nếu người Kinh dùng hai ống bễ bằng gỗ, thụt hơi bằng pít-tông thì bễ thụt của người Tơ Ðrăh dùng dạ dày con mang đem phơi khô rồi gắn vào ống dẫn hơi, qua lực quay của thợ rèn, túi da phồng lên xẹp xuống sinh ra hơi rồi đẩy thẳng vào bể lộ thiên.

Bể lộ thiên này kín, giữ được nhiệt tốt, hơn nữa lại không để thoát hơi ra ngoài nên sử dụng rất hiệu quả, nó có thể làm than cháy đỏ và rất đều. Theo lời những người thợ rèn nơi đây, ngày trước, người Tơ Ðrăh rèn dụng cụ từ quặng nhưng nay đa số đều rèn từ sắt có sẵn. Từ một cục sắt, người Xơ Ðăng nung cho đỏ rực rồi đem nhúng vào nước để nhiệt độ giảm đột ngột làm cho sắt non hơn để dễ đập thành sản phẩm. Sau đó, người thợ phải hình dung được hình dạng của công cụ rồi dùng đột và búa cắt thành hình công cụ cần rèn. Họ tiếp tục bỏ vào lửa nung rồi lại đập cho đến khi nào thành hình như ý.

Rèn xong, người Tơ Ðrăh tiếp tục sử dụng dũa (hoặc lá rừng) dũa những đoạn bị mẻ, sứt hoặc chưa đều. Khi lưỡi của vật dụng đã nhẵn, họ tiếp tục lấy đá để mài, mài thật kĩ cho đến khi đầu lưỡi sắc hơn và bong ra một lớp trắng ở đầu lưỡi thì mới thôi. Công đoạn mài không hề đơn gian, phải mài thật nhanh, thật tỉ mỉ và khéo léo thì dụng cụ mới bén như ý muốn.

Sau khi vật dụng đã có độ bén nhất định, người Tơ Ðrăh bắt đầu lấy máu con mang bôi đều lên lưỡi vật dụng. Ðây là bí quyết riêng của người Xơ Ðăng. Họ quan niệm, bôi máu con mang lên sẽ làm cho lưỡi dao, rựa, rìu... rất bén và bền, khó sứt mẻ.

Vì không dễ bắt được con mang nên khi có máu con mang người dân thường để dành sử dụng nhiều lần. Mặc dù các công đoạn đều được thực hiện bằng thủ công nhưng mỗi ngày những thợ rèn lành nghề vẫn làm được từ 10-15 cái dao, Knoa...

Người Xơ Ðăng Tơ Ðrá ở Ðắc Ui (Ðắc Hà, Kon Tum) không còn làm lò thổi, luyện sắt mà họ tận dụng những miếng sắt sẵn có để rèn nông cụ. Nghề rèn cũng không được làm quanh năm như trước kia nữa, mà chủ yếu bà con chế tác dụng cụ sản xuất trước mỗi mùa rẫy. Mỗi làng cũng chỉ có một số gia đình làm nghề, và sẽ làm dụng cụ lao động cho các gia đình trong họ, trong xóm. Tuy không còn đào quặng, luyện sắt như trước kia, nhưng kỹ thuật rèn thì người Tơ Ðrá vẫn giữ nguyên. Ðặc biệt, không phải than nào cũng dùng để đốt lò, mà họ vẫn sử dụng loại than được đốt từ cây loăng rlinh, như cha ông mình ngày trước. Than từ cây loăng rlinh cho ngọn lửa có nhiệt độ lên đến trên 1000 độ C. Cách thức rèn nông cụ của người Tơ Ðrá cũng tương tự các dân tộc khác, nhưng ngoài các công đoạn đập, sửa, mài, tôi thì bà con còn dùng vảy tê tê, sừng trâu trong quá trình tôi, để sản phẩm có độ rắn chắc và bền hơn.

Người Xơ Ðăng Tơ Ðrá vẫn giữ các nghi lễ gắn với nghề rèn. Trước mỗi mùa rèn, bà con thường tổ chức cúng Giàng ngay tại lò. Lễ cúng Giàng thường gồm có con gà, ghè rượu và do người thợ rèn chính của làng đứng ra làm lễ. Họ lấy rượu, máu gà bôi lên chiếc đe, hòn đá mài, chiếc búa và khấn Giàng “mùa sắt này, người thợ sẽ làm ra nhiều mẻ sắt, rèn được nhiều dao sắc, cuốc bền…”. Trước và trong lễ, người Tơ Ðrá cũng kiêng cữ một số điều, như: người dân không ra đồng, lên rẫy, khách lạ không vào làng…

Trong bối cảnh của một nền công nghiệp hiện đại, hàng loạt các công cụ được sản xuất bằng máy móc ra đời với đầy đủ các tính năng nhưng đối với người Xơ Ðăng Tơ Ðrá ở Kon Tum, các sản phẩm đó vẫn không thể thay thế được chỗ đứng của các sản phẩm thủ công chất lượng, độc đáo do chính các thợ rèn Xơ Ðăng làm ra.
 
Theo thegioidisan.vn
thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Trải nghiệm nét văn hóa, truyền thống đặc trưng của các dân tộc

Ngày 31/7, thông tin từ Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết, từ ngày 1 - 29/8/2025 tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội) sẽ diễn ra nhiều hoạt động tháng 8 với chủ đề “Về Làng trải nghiệm nét văn hóa truyền thống”.

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Thắp lửa truyền thống, đánh thức bản sắc văn hóa dân tộc S’tiêng

Đồng bào dân tộc S’tiêng với kho tàng văn hóa phong phú đang đứng trước thách thức trong việc gìn giữ và truyền dạy cho thế hệ mai sau. Trước thực trạng này, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đang nỗ lực thắp lại ngọn lửa truyền thống, đánh thức tình yêu và ý thức bảo tồn văn hóa trong mỗi người trẻ.

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Nghệ An: Giải mã nghi thức buộc chỉ cổ tay và lễ đặt tên của người Ơ Đu

Trải qua hàng trăm năm người Ơ Đu tại bản Văng Môn (xã Nga My, tỉnh Nghệ An) đã bảo lưu, gìn giữ và trao truyền được nhiều tập tục, nghi thức văn hóa, tín ngưỡng, nét sinh hoạt mang giá trị bản sắc văn hóa rất độc đáo, riêng có. Trong đó, nghi thức cột chỉ cổ tay và lễ đặt tên đều nằm trong Lễ đón tiếng sấm đầu năm, vốn là những nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng độc đáo trong hệ thống lễ tục vòng đời của người Ơ Đu; thể hiện văn hóa ứng xử hài hòa giữa con người với thiên nhiên, hướng về cội nguồn, tri ân các vị tiền bối đã có công khai phá, bảo vệ bản mường, tạ ơn trời đất.

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Đưa di sản vào đời sống đương đại, phát triển du lịch bền vững

Ngày 14/7, tại xã Khổng Lào, Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu và UBND xã Khổng Lào tổ chức Lễ công bố Quyết định và trao chứng nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2025 cho tỉnh Lai Châu.

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Đặc sắc nghệ thuật chế tác khèn Mông ở vùng cao Lào Cai

Với đồng bào Mông ở vùng cao Lào Cai, cây khèn là nhạc cụ truyền thống quan trọng và độc đáo không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Nghệ thuật chế tác khèn đã trở thành nghề truyền thống quan trọng được người Mông nơi rẻo cao gìn giữ và quảng bá sản phẩm tới du khách trong, ngoài nước.

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Bảo tồn, phát triển văn hóa Khmer gắn với phát triển du lịch

Tại Bạc Liêu, đồng bào dân tộc Khmer có trên 78.000 người, chiếm 7,6% dân số. Đồng bào nơi đây có đời sống tinh thần phong phú với những ngôi chùa Khmer kiến trúc lộng lẫy, các loại hình nghệ thuật truyền thống và nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực

Vĩnh Phúc hiện là một trong nhiều địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Trước tình hình đó, tỉnh đã nỗ lực triển khai các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình; từ đó đạt mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số.

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Khai thác thế mạnh xuất khẩu sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh

Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Tiền Giang Lưu Văn Phi cho biết: Hiện nay, tỉnh nỗ lực khai thác những tiềm năng và thế mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông - thủy sản có lợi thế cạnh tranh; tích cực nắm bắt cơ hội, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu bền vững, thu hút ngoại tệ.