Người "giữ lửa" nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Êđê

Bà H’Yam (phải), Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông quan sát, hướng dẫn xã viên dệt thổ cẩm. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN
Bà H’Yam (phải), Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông quan sát, hướng dẫn xã viên dệt thổ cẩm. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Trăn trở khi thấy nghề dệt thổ cẩm truyền thống có nguy cơ bị mai một, bà H’Yam Bkrông (sinh năm 1965), buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã khởi xướng thành lập Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông. Đến nay, sau 17 năm thành lập và phát triển, hợp tác xã có đầu ra ổn định, giữ gìn được nghề truyền thống của dân tộc Êđê, giúp nâng cao đời sống hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số tại chỗ.

Người "giữ lửa" nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Êđê ảnh 1

Bà H’Yam (phải), Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông quan sát, hướng dẫn xã viên dệt thổ cẩm. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Nằm cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 12km, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông hiện có 45 thành viên, đều là người dân tộc Êđê. Xã viên hợp tác xã đều biết dệt may thành thạo các sản phẩm như y phục nam nữ, túi xách, cà vạt, khăn trải bàn, gối tựa lưng, áo dài, quần áo trẻ em… Doanh thu của Hợp tác xã ổn định khoảng 1,2 tỷ đồng/năm, trong đó thu nhập của xã viên trung bình từ 3,2 – 3,5 triệu đồng/người/tháng. Mức thu nhập này không cao so với các ngành nghề khác song đã góp phần giúp chị em xã viên ổn định kinh tế gia đình, giữ gìn được nghề truyền thống. Đây được xem là thành quả đối với những nỗ lực không mệt mỏi của bà H’Yam và các xã viên.

Bà H’Yam kể lại, năm 2003 khi là Ủy viên Ban Thường vụ Hội liên hiệp phụ nữ xã, bà thấy nghề dệt thổ cẩm truyền thống có nét đẹp và bản sắc văn hóa của dân tộc Êđê đang dần bị lãng quên. Dệt thổ cẩm lúc bấy giờ chỉ là phương pháp dệt thủ công, nhỏ lẻ, sản phẩm chủ yếu dùng trong gia đình, được phụ nữ trong buôn tranh thủ dệt lúc rảnh rỗi. Với khao khát giữ lửa cho nghề dệt truyền thống và giúp chị em có thêm thu nhập, bà H’Yam đã mạnh dạn đề xuất Hội liên hiệp phụ nữ, Ủy ban nhân dân xã thành lập tổ dệt. Bản thân bà H’Yam cũng đi vận động chị em trong buôn và các buôn lân cận tham gia. May mắn là chị em hưởng ứng nhiệt tình và thống nhất chọn mô hình hợp tác xã để khởi xướng "giữ lửa" nghề dệt.

Người "giữ lửa" nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Êđê ảnh 2Hiện nay, xã viên hợp tác xã đều đã biết dệt may thành thạo các sản phẩm như y phục nam nữ, túi xách, cà vạt, khăn trải bàn, gối tựa lưng, áo dài, quần áo trẻ em. Ảnh: TTXVN phát

Ban đầu khi mới thành lập, do khó khăn, Hợp tác xã chỉ có 3 xã viên góp vốn theo quy định, các xã viên khác chỉ có thể góp 50 – 100 ngàn đồng. Lúc bấy giờ, tay nghề xã viên chưa có, sản phẩm chưa đạt yêu cầu về thẩm mỹ nên khó tìm đầu ra cho sản phẩm. Được Hội liên hiệp phụ nữ xã cho vay 1,2 triệu đồng, hợp tác xã đã mua khung dệt và mời nghệ nhân trong buôn dạy xã viên dệt, may. Ngoài ra, bà H’Yam cùng các thành viên đã tích cực học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo những sản phẩm đa dạng về mẫu mã, hoa văn nên khâu tiêu thụ ngày càng tốt hơn. Những tháng ngày khó khăn ấy, với vóc dáng nhỏ nhắn và tấm lòng yêu ngành nghề truyền thống, bà H’Yam đã kiên trì tìm kiếm, thuyết phục khách hàng. Đến nay, hợp tác xã đã có đầu ra ổn định tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Quảng Ninh. Ngoài ra, sản phẩm của hợp tác xã được trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và được mời tham gia nhiều hội thi trang phục các dân tộc.

Sau 5 năm tham gia Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông, chị H’Phi Líp Byă (sinh năm 1992, buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột) cho biết, trước đây chị không biết may và dệt thổ cẩm. Từ khi tham gia hợp tác xã, chị được học dệt, học may, nhờ đó biết dệt thổ cẩm bằng tay, bằng máy; biết cắt may những bộ trang phục truyền thống, giỏ xách các loại. Chị H’Phi Líp chia sẻ, nhờ bà H’Yam giúp đỡ nên chị và các chị em trong hợp tác xã có được nghề dệt may, tạo ra những sản phẩm đặc trưng để giới thiệu cho du khách xa gần, có thu nhập ổn định.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, giảm giá thành sản phẩm và cạnh tranh được với thổ cẩm của các dân tộc khác, sau khi Hội liên hiệp phụ nữ xã tạo điều kiện cho vay vốn, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông đã mạnh dạn đầu tư thêm 5 máy dệt và các máy xếp sợi, máy cuộn thoi, máy cuộn sợi.

Bà H’Yam Bkrông, Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông chia sẻ, dù sản phẩm của hợp tác xã được cải tiến, mẫu mã thay đổi thường xuyên nhưng nền màu đen và họa tiết màu đỏ sẽ mãi không thay đổi vì đó là bản sắc văn hóa của dân tộc Êđê. Về kinh nghiệm để hợp tác xã ngày càng phát triển, bà H’Yam cho biết, bà và Ban quản trị Hợp tác xã luôn đề cao tính công bằng, minh bạch trong quá trình hoạt động và phân chia lợi nhuận cho xã viên. Ngoài ra, mọi người hợp tác xã còn đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống, kịp thời biểu dương các xã viên điển hình để tạo khí thế sôi nổi trong thi đua sản xuất.

Ngoài nghề dệt thổ cẩm, để tăng thêm thu nhập cho xã viên, hợp tác xã còn xây dựng trang trại nuôi hơn 2.000 con gà thả vườn và khoảng 300 con lợn. Với những lợi thế của địa phương về phát triển du lịch, hiện Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông đã xây dựng khu du lịch cộng đồng trên địa bàn buôn Tơng Jú với 3 nhà sàn trưng bày nhạc cụ, vật dụng lao động sản xuất, dụng cụ dệt vải, dụng cụ săn bắt của đồng bào Êđê. Khách du lịch đến đây, có thể được dệt thổ cẩm, được tham quan trải nghiệm đời sống, thưởng thức món ăn của người Êđê; say sưa trong tiếng cồng, tiếng chiêng, trong hương men rượu cần.

Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã Ea Kao Trịnh Thị Tuyết cho biết, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông là mô hình mà chính quyền địa phương rất tâm đắc. Sự thành công của hợp tác xã hiện nay có sự đóng góp quan trọng của bà H’Yam, một người gương mẫu, giỏi quản lý, nỗ lực học hỏi, nghiên cứu, nắm bắt tốt thông tin thị trường. Những việc làm của bà có lợi cho người dân địa phương và tạo công ăn việc làm cho người dân tộc thiểu số tại chỗ; qua đó người dân đoàn kết, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bà H’Yam còn là Buôn trưởng buôn Tơng Jú, là người có uy tín với cộng đồng, triển khai được các phong trào thi đua yêu nước đến đông đảo người dân trong buôn.

Với những nỗ lực trong 17 năm qua, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2013 vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Ngoài ra, hợp tác xã còn được nhận 4 Bằng khen của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, 3 Bằng khen của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Người "giữ lửa" nghề dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc Êđê ảnh 3 Bà H’Yam (trái), Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông hướng dẫn xã viên dệt thổ cẩm. Ảnh: TTXVN phát

Về dự định trong thời gian tới, bà H’Yam chia sẻ mong muốn giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc, đời sống của người Êđê đến đông đảo du khách. Tuy nhiên, để đầu tư cho du lịch cộng đồng, kinh phí của hợp tác xã còn eo hẹp, cần sự quan tâm đầu tư của các cấp, các ngành. Hợp tác xã cũng mong muốn được tập huấn, nâng cao kỹ năng, kiến thức về mô hình du lịch cộng đồng; liên kết quảng bá, tiêu thụ cho các sản phẩm thổ cẩm.

Về buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột có thể thấy vẻ đẹp lao động miệt mài bên khung dệt của những người phụ nữ Êđê nơi đây. Cũng chính nhờ nghề dệt này, mỗi người phụ nữ am hiểu hơn về bản sắc văn hóa dân tộc để có thể tự tin làm một hướng dẫn viên quảng bá, giới thiệu sản phẩm, cuộc sống thường ngày cho du khách. Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông cũng trở thành hợp tác xã kiểu mẫu về tính nhanh nhạy, nắm bắt thị trường song giữ lửa được ngành nghề truyền thống của dân tộc, thiết thực cùng địa phương xóa đói giảm nghèo.


Hoài Thu

(TTXVN)
Dân tộc Ê Đê

Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.

Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan... 

Dân số: 331.194 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

Lịch sử: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.

Hoạt động sản xuất: Người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.

Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.

Ăn: Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.

Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.

: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.

Quan hệ xã hội: Gia đình Ê Đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.

Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.

Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.

Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.

Lễ Tết: Người Ê Đê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.

Lịch: Nông lịch cổ truyền Ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.

Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê Đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê Đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.

Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em Ê Đê ưa thích.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Ê Đê

Có thể bạn quan tâm

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Ngày 17/11, tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng tỉnh tổ chức khai mạc không gian trưng bày, trải nghiệm nhà dài truyền thống và tái hiện “Lễ lên nhà mới” của người Ê Đê. Đây là một trong những nét đặc sặc trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk.

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Chiều 15/11, tại Công viên bờ biển Nha Trang (cạnh Tháp Trầm Hương – Quảng trường 2/4), phường Nha Trang, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa khai mạc trưng bày triển lãm 250 bức ảnh với chủ đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”. Đây là hoạt động góp phần gìn giữ, tôn vinh, lan tỏa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của các dân tộc Việt Nam.

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.

Nhiều hoạt động đặc sắc tại Ngày hội văn hóa - Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì

Nhiều hoạt động đặc sắc tại Ngày hội văn hóa - Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì

Ngày 6/11/2025, tại Trung tâm xã biên giới Thu Lũm (Lai Châu) diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ đặc sắc tại Ngày hội văn hóa – Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì năm 2026 như: Trình diễn cách thức làm bánh dầy truyền thống, trích đoạn Nghi lễ cúng tổ tiên – chúc Tết ông bà, cha mẹ trong ngày đầu năm mới, nghề thủ công truyền thống, tạo hình trang phục, lễ hội ẩm thực, trình diễn kỹ thuật chế tác nhạc cụ truyền thống... 

Đồng bào Cống nơi biên giới Nậm Kè vui Tết Hoa mào gà

Đồng bào Cống nơi biên giới Nậm Kè vui Tết Hoa mào gà

Khi sắc hoa mào gà rực đỏ trên những sườn đồi, cũng là lúc đồng bào Cống ở xã Nậm Kè, tỉnh Điện Biên nô nức đón Tết Hoa mào gà, hay còn gọi là Tết Hoa. Đây là dịp để bà con sum họp, vui Tết truyền thống, đồng thời gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện đời sống tinh thần phong phú, tình đoàn kết của cộng đồng người Cống nơi cực Tây Tổ quốc.

Lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế

Lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế

Với vị thế là vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, những năm qua, Phú Thọ đã chủ động, sáng tạo trong ngoại giao văn hóa và đạt được nhiều kết quả quan trọng; góp phần lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Tưng bừng giải đua ghe Ngo của đồng bào Khmer Vĩnh Long

Tưng bừng giải đua ghe Ngo của đồng bào Khmer Vĩnh Long

Chiều 3/11, tại sông Long Bình (phường Long Đức và Hòa Thuận), Giải đua ghe Ngo tỉnh Vĩnh Long tranh cúp 620 Châu Thới năm 2025 được khai mạc. Đây là hoạt động trọng điểm chào mừng Lễ hội Ok Om Bok năm 2025, một trong số lễ hội lớn của đồng bào Khmer Nam Bộ.

Hội chợ mùa Thu 2025: Điểm hẹn sắc màu dân tộc

Hội chợ mùa Thu 2025: Điểm hẹn sắc màu dân tộc

Hội chợ mùa Thu 2025 tại Trung tâm triển lãm Quốc gia (Đông Anh, Hà Nội) không chỉ là sự kiện xúc tiến thương mại quy mô quốc gia mà còn là nơi hội tụ và quảng bá những giá trị văn hóa, những sắc màu dân tộc Việt Nam. Tại đây, có thể bắt gặp rất nhiều đồng bào các dân tộc với những nét văn hoá đặc trưng, cùng các sản vật địa phương phong phú.

Văn hóa - nguồn lực nội sinh quan trọng vùng đồng bào DTTS

Văn hóa - nguồn lực nội sinh quan trọng vùng đồng bào DTTS

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, chỉ đạo việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong suốt quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước với phương châm "Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất, đa dạng". Các chủ trương, chính sách đã ban hành, thực hiện thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội.

Công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm mão, mặt nạ của đồng bào Khmer

Công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm mão, mặt nạ của đồng bào Khmer

Ngày 1/11, tại lễ kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11) gắn với Tuần lễ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chào mừng Lễ hội Ok Om Bok năm 2025 diễn ra tại phường Nguyệt Hóa, tỉnh Vĩnh Long, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh công bố quyết định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc đưa nghề thủ công mỹ nghệ “Nghề làm mão (mũ), mặt nạ của đồng bào Khmer” vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

'Giữ lửa' Then giữa miền quan họ

Giữa miền quan họ mượt mà câu hát, tiếng đàn tính của người Tày, Nùng vang lên như một nét riêng trong bức tranh văn hóa Kinh Bắc. Mỗi làn điệu Then cất lên là một nhịp nối giữa quá khứ và hiện tại, mang theo tình yêu quê hương và khát vọng gìn giữ cội nguồn. Trong nhịp sống hiện đại, những người con nơi đây vẫn lặng lẽ “giữ lửa”, để làn điệu Then tiếp tục ngân vang giữa miền di sản thắm tình người quan họ.

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Đặc sắc Lễ hội Katê 2025 của đồng bào Chăm

Sáng 21/10, đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại Khánh Hòa và Lâm Đồng cùng du khách thập phương nô nức tham dự Lễ hội Katê năm 2025 - một sự kiện văn hóa truyền thống quan trọng nhất trong năm của người Chăm.