Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2)

Tỉnh An Giang khuyến khích người dân và doanh nghiệp đẩy mạnh cơ giới hoá đồng bộ, sản xuất các giống lúa thơm, đặc sản đảm bảo chất lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN
Tỉnh An Giang khuyến khích người dân và doanh nghiệp đẩy mạnh cơ giới hoá đồng bộ, sản xuất các giống lúa thơm, đặc sản đảm bảo chất lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN

Bài 2: Thời cơ mới cho vựa lúa Việt Nam

Tay quệt ngang trán lau đi những giọt mồ hôi đang tuôn trong cái nắng chói chang của vùng Đồng Tháp, nông dân Nguyễn Văn Một nhoẻn miệng cười chỉ tay vào đám ruộng trước mặt: “Lúa nhà tui đây, còn khoảnh kia là của anh em trong nhóm. Chỗ này chúng tôi hợp đồng hết rồi. Đến mùa thu hoạch là chở vô nhà máy thôi”. Trên khuôn mặt rám nắng lộ nét lạc quan khi nhìn những ruộng lúa đang tươi tốt, chú nói: “Mấy mùa nay hợp đồng với nhà máy ổn định, có tiền hơn, vợ tui cũng ủng hộ, không càm ràm, làm ăn cũng lên hương hơn”.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2) ảnh 1Tỉnh An Giang đang thực hiện đề án “Xây dựng và phát triển thương hiệu gạo An Giang đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN

Từ sản xuất nông nghiệp…

Nông dân Nguyễn Văn Một (trú tại ấp Tân An, xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) được người dân nơi đây gọi bằng cái tên Mười Một như cách giản dị mà người Nam Bộ hay gọi. Chú Mười Một có thể được coi là một nông dân thế hệ 4.0 điển hình. Là trung gian cho nhóm 17 hộ dân ký hợp đồng cung cấp lúa cho Nhà máy xay xát gạo Lấp Vò (Tập đoàn Sunrice của Australia), chú Mười Một cho biết, cả nhóm có 24 ha lúa, trong đó, gia đình chú có hơn 7 ha, ký hợp đồng cung cấp cho Sunrice đã sang mùa vụ thứ 4.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2) ảnh 2Nông dân Nguyễn Văn Một (ấp Tân An, xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp), một nông dân thế hệ 4.0 điển hình và ông Mark Tattersall, Phó Đại sứ Australia tại Việt Nam trên cánh đồng lúa ông đang canh tác. Ảnh: Trọng Chính
Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2) ảnh 3Nông dân Nguyễn Văn Một và những nông dân trong nhóm của ông là những người được hưởng lợi từ Dự án “Chuỗi giá trị gạo bền vững cho nông hộ nhỏ tại Đồng bằng sông Cửu Long” có nguồn kinh phí tài trợ khoảng 2,6 triệu AUD đến từ ngân sách Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Australia và Tập đoàn Sunrice (Australia) thực hiện theo hình thức đối tác công tư (PPP). Ảnh: Trọng Chính

Ba vụ trước, Nhà máy gạo đều đưa ra mức giá thu mua ổn định. Quá trình chăm sóc lúa, các kỹ sư nông nghiệp của Nhà máy cũng thường xuyên xuống thăm ruộng, trợ giúp nông dân chăm sóc quá trình sinh trưởng của cây lúa. “Giờ chăm lúa cũng nhàn thôi, cứ theo sát quy trình kỹ thuật. Khâu bón phân, xử lý thuốc đã có cơ giới máy bay lo rồi”, ông Mười Một chia sẻ.

Đến kỳ thu hoạch, khác với trước đây, thương lái thường chở ghe đến ruộng thu mua của nông dân theo giá thường là thấp hơn thị trường. Nay, chú Mười Một và các nông dân trong nhóm thuê ghe chở đến nhà máy. Chú vui vẻ cho biết: “Ngày xưa bán cho thương lái, giao tại ghe, giờ bán cho nhà máy, mình phải tổ chức bài bản, thuê ghe đàng hoàng chở đến cho nhà mày. Hổng biết thì thôi chứ biết thấy cũng dễ dàng à!. Tiền công chuyên chở lúa được nhà máy tính vô giá mua lúa rồi nên anh em ở đây cũng đồng tình với tui, làm khỏe lắm".

Khi được hỏi, giờ giá thị trường cao quá, nông dân mình có chừa lại một ít bán ra ngoài không, chú Mười Một lắc đầu quầy quậy: "Không, đâu có làm vậy được, ký hợp đồng bán cho nhà máy rồi thì phải bán hết chứ, làm vậy nói chuyện được với ai, đâu còn uy tín với anh em nữa”. Chú Mười Một cũng cho biết, thấy nhóm của chú làm ăn ổn định với Nhà máy, nhiều hộ lân cận cũng muốn tham gia nhóm, nhờ chú Mười Một tư vấn, ký hợp đồng bao tiêu với Nhà máy.

Chú Mười Một và những nông dân trong nhóm của chú là những nông dân được hưởng lợi từ Dự án “Chuỗi giá trị gạo bền vững cho nông hộ nhỏ tại Đồng bằng sông Cửu Long” có nguồn kinh phí tài trợ khoảng 2,6 triệu AUD đến từ ngân sách Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Australia và Tập đoàn Sunrice (Australia) thực hiện theo hình thức đối tác công tư (PPP). Đối tác chính tại Việt Nam của dự án là Viện Nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long (Đại học Cần Thơ), Đại học An Giang (Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh), Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sóc Trăng và Đồng Tháp cùng một số công ty trực thuộc Tập đoàn Sunrice.

Dự án nhằm mục tiêu thiết lập một chuỗi giá trị gạo cho năng suất cao, bền vững, có thể truy xuất nguồn gốc và đảm bảo chất lượng cho gạo hạt ngắn nhiệt đới với những đặc tính cụ thể ở Đồng bằng sông Cửu Long, đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu của Sunrice.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Hồng Tín (Viện Nghiên cứu phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Cần Thơ), đối tượng hưởng lợi từ dự án là các hộ nông dân trồng lúa quy mô nhỏ, các nhóm nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp tại các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ. Khi tham gia dự án, họ sẽ được hỗ trợ tăng cường năng lực và mở rộng các cơ hội để tham gia chuỗi liên kết với các thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, Dự án cũng có một hợp phần nghiên cứu được triển khai ở Bắc Australia nhằm hỗ trợ cho các hoạt động nhân giống tại Việt Nam. Theo đó, Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long sẽ lai tạo và phát triển giống lúa Japonica hạt ngắn cho năng suất cao, chịu được áp lực sinh học và phi sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long, đáp ứng các trong yêu cầu chất lượng cao đối với thị trường quốc tế của Sunrice. Đồng thời hoạt động nhân giống ở Australia sẽ nghiên cứu việc sử dụng các phương pháp tiếp cận di truyền thế hệ mới gồm: Hỗ trợ đánh dấu và chọn lọc bộ gen trong giai đoạn tiền nhân giống. Việc này nhằm hỗ trợ công tác nhân các giống có khả năng kháng bệnh trên cây lúa.

Các kết quả nghiên cứu nhân giống ở Australia sẽ được chia sẻ với chương trình nhân giống ở Việt Nam để hỗ trợ phía Việt Nam áp dụng các công nghệ mới trong nghiên cứu các giống phù hợp với khí hậu nhiệt đới.

Tiến sỹ Nguyễn Hồng Tín đánh giá, thông qua dự án này, người nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp cận được với những giống lúa tốt, cho năng suất cao, chống chịu được với những tác động của biến đổi khí hậu, đáp ứng các yêu cầu chất lượng cao của thị trường quốc tế. Người nông dân còn được nâng cao tri thức, thực hành các khâu thu hoạch đúng tiêu chuẩn, giúp giữ được phẩm cấp lúa và giá trị sản phẩm. Họ sẽ hiểu được thế nào là chuỗi giá trị gạo bền vững, từ đó có được lợi ích từ điều này. Từ việc phụ thuộc nhiều vào thương lái mỗi khi đến vụ, không tiếp cận được thị trường, thông qua dự án này, họ cũng được kết nối với các thị trường xuất khẩu giá trị cao.

Điểm mới của Dự án này là, doanh nghiệp phối hợp cùng các cơ quan của Chính phủ tổ chức vùng sản xuất nguyên liệu sau đó mới ký hợp đồng với nông dân đối với những sản phẩm đạt chất lượng cao, tiếp cận được với các thị trường quốc tế. Điều này giúp tạo niềm tin, tinh thần hợp tác cho người nông dân, từ đó xây dựng mối liên kết bền vững giữa nông dân và doanh nghiệp.

Cũng theo Tiến sỹ Nguyễn Hồng Tín, chuỗi giá trị lúa gạo bền vững được thể hiện qua 3 điểm: Kinh tế bền vững, môi trường bền vững, xã hội bền vững. Tuy nhiên, đến nay, bền vững về kinh tế luôn được đặt trọng tâm. Qua hơn 1,5 năm vận hành dự án này, doanh nghiệp và nông dân nơi đây đang có sự kết nối khá vững chắc về mặt kinh tế. Người nông dân được tiếp cận với thị trường quốc tế rộng lớn có sẵn của doanh nghiệp, được tiếp cận với những tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất, canh tác, thu hoạch để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm lúa gạo. Đây là hướng đi phù hợp với ngành lúa gạo của Việt Nam.

"Hướng đi này sẽ có những doanh nghiệp, nông dân đi trước. Những doanh nghiệp, nông dân khác, dù với tập quán canh tác hay truyền thống kinh doanh thế nào thì với áp lực thị trường, áp lực về xu hướng, sẽ phải chuyển đổi phương thức để cạnh tranh với thị trường thế giới", Tiến sỹ Nguyễn Hồng Tín nhận định.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2) ảnh 4Tỉnh An Giang khuyến khích người dân và doanh nghiệp đẩy mạnh cơ giới hoá đồng bộ, sản xuất các giống lúa thơm, đặc sản đảm bảo chất lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. Ảnh: Vũ Sinh – TTXVN

… đến kinh tế nông nghiệp

Đến nay, tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp bắt đầu đã bén rễ vào nhận thức xã hội, vào người nông dân, vào các doanh nghiệp. Như Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan từng phát biểu: “Ngành Nông nghiệp thời gian tới phải chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, chuyển từ đơn giá trị sang đa giá trị. Tư duy kinh tế nông nghiệp là tư duy bán hàng, với những tâm huyết, trách nhiệm với cộng đồng, xã hội và thương hiệu phải được xây dựng từ "nhân hiệu"”.

Người nông dân không còn đơn thuần chỉ biết chăn nuôi, trồng trọt. Họ đang từng ngày từng giờ cập nhật kiến thức nông học, tiếp cận với thế giới, sử dụng công nghệ tiên tiến vào canh tác, thu hoạch. Như chú Mười Một và nhiều nông dân khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, việc sử dụng máy bay không người lái để bón phân, rải thuốc hay các máy móc hiện đại khác trong canh tác lúa đã trở nên quen thuộc. Không còn cảnh “Ngửa mặt trông trời” hay “may nhờ rủi chịu”, canh tác mùa vụ được thực hiện nghiêm ngặt theo quy trình, đáp ứng đầy đủ những điều kiện nghiêm ngặt của những thị trường khó tính như: châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia…

Giáo sư Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Nam Cần Thơ, Giáo sư “gạo” của Việt Nam cho rằng, tình trạng “trúng mùa, rớt giá” của nền nông nghiệp Việt Nam cần phải chấm dứt. “Nếu nền “kinh tế giải cứu” còn tồn tại, nông dân sẽ tiếp tục sản xuất. Do đó, người nông dân cần được phổ biến, cập nhật kiến thức về kinh tế nông nghiệp để có thể tự tính toán, giải quyết được các yếu tố về nhu cầu thị trường, chi phí sản xuất, chất lượng nông sản, chuỗi ngành hàng giá trị bền vững thì mới có thành công.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 2) ảnh 5Giáo sư Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Nam Cần Thơ trả lời phỏng vấn các phóng viên ngay trên bờ ruộng của ông Nguyễn Văn Một ở ấp Tân An, xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Trọng Chính

“Người nông dân cũng cần biết chủ động liên kết, cùng bắt tay nhau trong những hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới để tạo thành một cánh đồng lớn sẵn sàng liên kết với các nhà đầu tư lớn xây dựng vùng công nghiệp sản xuất lúa sạch, rau quả sạch, hoặc vùng công nghiệp thủy sản sạch, cung cấp cho doanh nghiệp, từ đó sản phẩm của nông dân sẽ được tiêu thụ ở thị trường quốc tế”, Giáo sư Võ Tòng Xuân nhận định.

Theo Giáo sư Võ Tòng Xuân, từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, người nông dân cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp. Kết nối này cần được thực hiện trên tinh thần minh bạch, công bằng, phát huy lợi ích nhiều mặt, từ đó, ngành nông nghiệp phát triển ngày càng bền vững.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thích ứng với những tác động không mong muốn hay đón nhận cơ hội từ thách thức này tùy thuộc vào quyết định của từng nông dân. Thay đổi để thích ứng, học hỏi để thành công, chuyển đổi tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp không dễ nhưng với sự chung tay hỗ trợ của Nhà nước, doanh nghiệp, chuyên gia nông nghiệp, với sự cần cù, sáng tạo của nông dân Việt, ngành Nông nghiệp Việt Nam, vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long chắc chắn sẽ đón được những thời cơ mới. (Xem tiếp Bài 3: Biến thách thức thành cơ hội phát triển

Thu Phương

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.