Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 1)

Dấu tích rừng cây còn sót lại ở xã Tân Điền (Gò Công Đông)
Dấu tích rừng cây còn sót lại ở xã Tân Điền (Gò Công Đông)

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng cực Nam của Việt Nam gồm 1 thành phố và 12 tỉnh. Vùng đất được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua nhiều kỷ nguyên thay đổi mực nước biển.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 1) ảnh 1Đồng bằng sông Cửu Long được coi là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy sản của đất nước. Đây là vùng đất này có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp với hơn 2,5 triệu ha đất nông nghiệp được bồi đắp phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Ảnh: Trọng Chính

Là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của cả nước, Đồng bằng sông Cửu Long thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu khi đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng đến toàn cầu cũng như Việt Nam với những tác động như: Mực nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt, triều cường, bồi lắng cửa sông… Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang từng ngày, từng giờ chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu với tình trạng hạn hán, lũ lụt và xâm nhập mặn ngày càng tăng.

Trước hiện trạng này, nhiều giải pháp đã được ban hành; từ sách lược của Đảng, Nhà nước với Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ: Về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu hay còn gọi là “Nghị quyết thuận thiên” đến những nghiên cứu chuyên gia, nhà khoa học, hỗ trợ của các đối tác quốc tế, sự hợp tác của doanh nghiệp, sự chủ động người dân. Từ đó, thách thức từ biến đổi khí hậu đã trở thành cơ hội, tư duy sản xuất nông nghiệp của người nông dân nơi đây từng bước thay đổi, đưa Đồng bằng sông Cửu Long ngày càng phát triển bền vững.

Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có chuyến công tác tới một số địa phương thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long để nắm bắt thực tế và triển khai 4 bài viết chủ đề: “Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng”.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 1) ảnh 2Những năm qua, mô hình luân canh trồng lúa kết hợp nuôi tôm đã chứng minh được tính hiệu quả, ngày càng chứng tỏ được sự phát triển bền vững. Bởi, mô hình không chỉ thích ứng được với điều kiện biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn ngày càng gay gắt mà giá trị từ việc làm lúa sạch, tôm sạch đã góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của Cà Mau. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN

Bài 1: Đối mặt với nguy cơ

Đồng bằng sông Cửu Long được coi là vựa lúa, vựa trái cây, vựa thủy sản của đất nước. Với diện tích tự nhiên gần 4 triệu km2 (khoảng 13% diện tích cả nước) và dân số khoảng triệu người (19% dân số cả nước), vùng đất này có điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp với hơn 2,5 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 62,9% tổng diện tích đất tự nhiên của cả vùng) được bồi đắp phù sa màu mỡ, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt.

Đồng bằng sông Cửu Long thực hiện sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu khi đóng góp tới hơn 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản và 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, những năm gần đây, vùng đất này đang đứng trước tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún đất chủ yếu do biến đổi khí hậu gây ra.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 1) ảnh 3Sạt lở lộ nông thôn nghiêm trọng tại tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: Tuấn Phi-TTXVN

Nguy cơ hiện hữu

Theo một nghiên cứu của Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (cơ quan trực thuộc Liên hợp quốc) qua phân tích và phỏng đoán các tác động của nước biển dâng, 3 vùng châu thổ được xếp trong nhóm cực kỳ nguy cấp do biến đổi khí hậu là: Vùng hạ lưu sông Mekong (Việt Nam), sông Ganges - Brahmaputra (Bangladesh) và sông Nile (Ai Cập). Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cũng cho thấy, Việt Nam nằm trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất do biến đổi khí hậu. Tại Việt Nam, 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng nặng nhất. Khi nước biển dâng cao 1 m, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng.

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, ở Đồng bằng sông Cửu Long, ước tính hàng trăm ngàn hecta đất bị ngập, hàng triệu người có thể bị mất nhà cửa nếu nước biển dâng cao. Sản lượng lương thực có nguy cơ giảm sút lớn, đe dọa tới an ninh lương thực của quốc gia. Diện tích canh tác nông nghiệp sử dụng nguồn nước ngọt như lúa, màu, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản sẽ bị thu hẹp, năng suất và sản lượng sẽ suy giảm. Cá nước ngọt dự kiến sẽ suy giảm vì diện tích đất đồng bằng và dòng sông nhiễm mặn gia tăng. Ngược lại, cá nước mặn, lợ sẽ phát triển. Diện tích nuôi tôm, sò và hải sản khác có thể sẽ gia tăng trong tương lai. Các vùng tài nguyên rừng, đất, nước, sinh vật hoang dã, khoáng sản (than bùn, cát đá xây dựng...) sẽ bị xâm lấn. Nông dân, ngư dân, diêm dân và thị dân nghèo sẽ là đối tượng chịu nhiều tổn thương nặng nề do thiếu nguồn dinh dưỡng, thiếu khả năng tài chính, thiếu điều kiện tiếp cận thông tin để có thể đối phó kịp thời với sự thay đổi của thời tiết và khí hậu. Dự kiến sẽ có sự dịch chuyển dòng di cư của nông dân ở các vùng ven biển bị tác động nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên các đô thị vùng phía Bắc và phía Tây. Điều này khiến các quy hoạch đô thị bị phá vỡ, trật tự xã hội sẽ là một thử thách, môi trường đô thị sẽ bị xấu đi do sự gia tăng cơ học về dân số.

Tác động không mong muốn

Nêu 4 vấn đề gây ra những tác động không mong muốn của biến đổi khí hậu đối với toàn cầu cũng như Việt Nam và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Phát triển nông thôn Việt Nam, thành viên Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu của Việt Nam, hiện là thành viên Hội đồng cố vấn chính sách Australia về nghiên cứu nông nghiệp quốc tế cho biết, vấn đề đầu tiên là nền nhiệt độ tăng giảm không theo quy luật. Điều này khiến sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là cây trồng bị ảnh hưởng, dẫn đến quá trình ra hoa, đậu quả, mùa vụ đều phải điều chỉnh. Thứ hai là lượng mưa, trước đây mưa rất đều và đúng mùa để người dân tính toán mùa vụ phù hợp. Nay, mưa bất thường, đang mùa hạn lại có mưa hoặc đang mùa mưa lại hạn. Những cây trồng vốn quen với chu kỳ mưa trước đây không thể thích ứng kịp. Ví dụ, khi cây cà phê đang trong quá trình hạn lại có mưa sớm nên đã ra hoa. Người nông dân phải vứt bỏ phần hoa, điều chỉnh lại mùa vụ theo hướng tưới đuổi để đáp ứng đủ lượng nước cho bung hoa hết. Quy trình này rất tốn kém. Bên cạnh đó, việc chu kỳ mưa thay đổi cũng làm chuyển đổi cả kế hoạch bón phân cũng như xử lý sâu bệnh.

Bên cạnh nhiệt độ và mưa, hạn hán xảy ra dẫn đến xâm nhập mặn ở vùng thấp. Theo Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ, hạn hán-xâm nhập mặn là tác động điển hình của biến đổi khí hậu đối với những nước có tiếp giáp với biển. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng rất thấp. Theo kịch bản xấu, nếu khu vực này bị ngập 100 cm, có thể trên 50% diện tích ở Đồng bằng sông Cửu Long ngập trong nước biển.

Đề cập đến nước biển dâng, Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ cho rằng, hiện tượng này cùng với việc mưa ít dẫn đến nước mặn xâm nhập ngày càng sâu vào khu vực này. Trước kia, vùng nhiễm mặn chỉ trong một vài chục km, nay đã lên đến 50, 60 km, thậm chí xa hơn, sâu hơn.

Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long: Thuận thiên để thích ứng (Bài 1) ảnh 4Đai rừng phòng hộ ven biển Gò Công (Tiền Giang) đang bị xâm thực ngày càng nghiêm trọng. Nhiều vị trí, đai rừng phòng hộ chỉ còn từ 4 m đến 20 m, một số đoạn đê xung yếu không còn rừng nên sóng biển đánh thẳng vào thân đê, đe dọa nghiêm trọng sản xuất và đời sống. Trong ảnh: Dấu tích rừng cây còn sót lại ở xã Tân Điền (Gò Công Đông). Ảnh: Minh Trí - TTXVN

Một vấn đề nữa được Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ đề cập đến, diện tích bị ngập không chỉ do nước biển dâng mà còn do tình trạng sụt lún nền đất. Đây là hệ lụy của quá trình xây dựng không theo quy hoạch, mật độ xây dựng quá cao kết hợp với tình trạng khai thác nước ngầm quá mức.

Tác động cuối cùng được Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ nhắc tới là phát thải khí nhà kính. “Có 3 lĩnh vực phát thải rất lớn, đó là canh tác lúa, chăn nuôi đại gia súc, sử dụng đất. Cơ hội giảm được tỷ lệ phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp là rất lớn. Tuy nhiên, đòi hỏi nguồn kinh phí khá cao để đầu tư các giải pháp khoa học kỹ thuật”, Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ nhận định.

Tiến sỹ Bộ lấy ví dụ, muốn chuyển từ tưới ngập nước liên tục sang tưới nước chủ động, rút nước giữa kỳ hoặc ướt khô xen kẽ, hệ thống ruộng phải được san phẳng, hệ thống thoát nước phải tốt, hệ thống tưới phải chủ động. Đối với việc sử dụng phân bón, phải dùng thế hệ mới là phân bón chậm tan, chậm phân hủy để tăng hiệu quả, giảm phát thải, đặc biệt là đối với phân đạm. “Nói như vậy thì rất lý thuyết vì lấy đâu ra phân chậm tan khi bây giờ cả thế giới mới thương mại hóa được vài triệu tấn; trong khi đó, riêng Việt Nam đã sử dụng 7,5-8 triệu tấn phân hóa học; phân chậm tan thì ta chưa sản xuất được. Đối với phân hữu cơ, trước đây, các hộ đều có bể ủ phân chuồng, nay gần như hòa loãng nước đổ ra môi trường. Phụ phẩm thì đốt hết do mùa vụ ngắn, không có chế phẩm sinh học xử lý được rơm rạ trong vòng 20 ngày”, Tiến sỹ Bộ chia sẻ.

Tiến sỹ Nguyễn Văn Bộ cũng nhận định: “Khi nói đến thích ứng với biến đổi khí hậu nghĩa là chúng ta đã xét đến yếu tố tích cực”. Theo đó, mặt tích cực ở đây là cơ hội để chuyển đổi quỹ đất kém hiệu quả, từ những cây trồng, vật nuôi kém hiệu quả sang cây trồng, vật nuôi khác hiệu quả hơn. Cùng với đó, các sản phẩm nông nghiệp ngày càng được đa dạng hóa, đảm bảo an toàn sản xuất… Do đó, thách thức từ biến đổi khí hậu, nếu biết tận dụng, sẽ là cơ hội bứt phá cho Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, cả nước nói chung; cơ hội cho kinh tế nông nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế cả nước trong tương lai. (Xem tiếp Bài 2: Thời cơ mới cho vựa lúa Việt Nam)

Thu Phương

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.