Trong đời sống văn hóa của đồng bào Cơ Tu tại thành phố Đà Nẵng, mỗi dịp lễ hội như mừng lúa mới, lễ kết nghĩa, lễ mừng gươl mới…, điệu múa “Tung tung da dá” luôn hiện diện như một nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Từ bao đời nay, điệu múa không chỉ là lời chào đón trang trọng trong ngày hội lớn, mà còn là biểu tượng thiêng liêng gắn với bản sắc và tâm hồn người Cơ Tu. Với người Cơ Tu ở Đà Nẵng, điệu múa ấy là niềm tự hào, cũng là nơi họ gìn giữ ký ức tổ tiên và gửi gắm tinh thần đoàn kết của cộng đồng.
Theo Luật Di sản: “Di sản văn hóa phi vật thể là tri thức, kỹ năng, tập quán, biểu đạt văn hóa cùng đồ vật, đồ tạo tác, không gian liên quan được cộng đồng, nhóm người, cá nhân thực hành, trao truyền qua nhiều thế hệ và hình thành nên bản sắc văn hóa của họ, không ngừng được trao truyền, bảo vệ, tái tạo, sáng tạo, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Vũ điệu “Tung tung da dá”, “Tân tung da dá” hay còn gọi là “Vũ điệu dâng trời”, là điệu múa mang tính tập thể rất cao, kết hợp giữa nam và nữ, giữa âm thanh cồng chiêng cùng với tiếng “hú” vang xa, cao vút như nốt nhấn làm mạnh mẽ thêm cho ngôn ngữ múa… Vũ điệu “Tung tung da dá” gồm 4 điệu chính: Đhưưng, Đhập, Trơ ghlệch, Prơlư.
Trong đó, điệu Đhưưng là điệu múa mở đầu, khởi nguồn của lễ hội. Những bước chân nhẹ, nhịp nhàng, như lời mời gọi thần linh về chứng giám cho dân làng. Tiếng chiêng ngân tiếng trống vọng, hoà cùng nụ cười rạng rỡ, đưa con người hoà nhịp cuộc sống núi rừng.
Điệu múa được đồng bào Cơ Tu trình diễn khi muốn lan tỏa niềm vui, với tiếng trống chiêng rạo rực trong tim và những bước chân mạnh mẽ, đạp xuống mặt đất, báo hiệu mùa màng bội thu, niềm hạnh phúc tràn đầy được gọi là điệu Đhập.
Còn điệu Prơlư trong vũ điệu “Tung tung da dá” là điệu múa trầm lắng, linh thiêng. Cả dân làng xoay quanh cây nêu, dâng lời tạ ơn thần núi, thần sông, cầu mong mùa màng tươi tốt, cuộc sống yên vui, tình đoàn kết mãi bền lâu như “dòng sông Trường Sơn không bao giờ cạn”.
Theo tiếng Cơ Tu, “Tâng tung/Tung tung” là điệu múa của nam giới với ý nghĩa vươn lên mạnh mẽ. Bên cạnh đó, “tâng tung” còn được hiểu là vươn lên cao, sôi động hơn, mạnh mẽ hơn và vững chãi hơn. Qua đó thể hiện khát vọng chinh phục vũ trụ, muốn vươn lên tầm cao mới, mong cuộc sống tốt đẹp hơn của mỗi con người.
Còn “da dá” được hiểu là thẳng hàng, nhịp đều, mang khát vọng, có ý nghĩa tâm linh là nhớ ơn đất trời, trung thành với người, kính trên nhường dưới. Trong điệu “da dá”, động tác múa phải uyển chuyển, toát lên sự đằm thắm, chung thủy và không bị khuất phục. Vì thế, điệu múa chỉ dành riêng cho “phái đẹp”. Người Cơ Tu quan niệm rằng phụ nữ vốn thùy mị, thương chồng, yêu con, biết hy sinh vì sự sinh tồn, phát triển của dòng tộc.
Theo Luật Di sản văn hoá: “Nguyên tắc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa:
1. Mọi di sản văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam, có xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước ngoài, thuộc các hình thức sở hữu đều được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân.
3. Di sản văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài được bảo hộ theo luật pháp quốc tế và theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, hài hòa với quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cộng đồng, cá nhân; tôn trọng sự đa dạng văn hóa, sự đối thoại giữa các cộng đồng và tính đặc thù dân tộc, vùng, miền.
5. Ưu tiên bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, các dân tộc thiểu số rất ít người và những di sản văn hóa có giá trị toàn cộng đồng, xã hội.
6. Bảo đảm giữ gìn tối đa yếu tố gốc cấu thành di tích và tính nguyên gốc của di sản tư liệu; giá trị và hình thức thể hiện vốn có của di sản văn hóa phi vật thể.
7. Tôn trọng quyền của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể và nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các yếu tố cần được bảo vệ và hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản văn hóa; xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di sản văn hóa.
8. Lồng ghép việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng, địa phương”.
Người Cơ Tu rất ưa chuộng vũ điệu “Tung tung da dá”, bởi đây là một trong số ít những làn điệu dân ca dân vũ hòa trộn cho thấy sự đoàn kết gắn bó một lòng của đàn ông, thanh niên với đàn bà và thiếu nữ Cơ Tu. Vòng tròn nam nữ thanh niên di chuyển nhịp nhàng sinh động cùng với âm thanh cồng chiêng và các loại nhạc cụ truyền thống khác, luôn ngân dài tan vào vũ trụ như một lời cầu nguyện người Cơ Tu gửi tới đấng thần linh và tổ tiên.
Đồng bào Cơ Tu cũng tin rằng, thần đất, thần sông, thần suối cho họ cái ăn và Giàng (Trời) cho họ suy nghĩ, niềm tin, sức mạnh để vượt qua khó khăn, thử thách và sống mạnh mẽ cùng với nắng gió, với núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Ngoài ra, vũ điệu “Tung tung da dá” còn có ý nghĩa lớn trong việc kết nối cộng đồng cũng như góp phần làm cho bức tranh văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam thêm phong phú, đa dạng sắc màu. Năm 2014, vũ điệu này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa vật thể quốc gia.
Ngày nay, dù cuộc sống có nhiều đổi thay, vũ điệu “Tung tung da dá” vẫn vang lên trong mỗi dịp lễ hội như lời khẳng định mạnh mẽ về bản sắc của người Cơ Tu ở Đà Nẵng. Từng nhịp chân, từng vòng xoay như nhắc nhớ cộng đồng về cội nguồn, về những giá trị đã nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ. Giữ gìn và lan tỏa điệu múa truyền thống ấy không chỉ là trách nhiệm, mà còn là niềm tự hào của người Cơ Tu để sắc màu văn hóa đại ngàn tiếp tục tỏa sáng giữa dòng chảy hiện đại hôm nay.
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.