Tết của người Khmer Nam Bộ

Tết của người Khmer Nam Bộ
Dâng cơm lên chư tăng trong ngày Tết cổ truyền Chôl Chhnăm Thmây của đồng bào Khmer
Dâng cơm lên chư tăng trong ngày Tết cổ truyền Chôl Chhnăm Thmây của đồng bào Khmer


Như thế, ý nghĩa đón tết của người Khmer cũng không khác gì ý nghĩa ngày tết cổ truyền của các dân tộc khác, tuy cách tổ chức và tập tục có khác nhau. Song, vì người Khmer là dân tộc theo đạo Phật, coi ngôi chùa như một trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, do vậy mà ngoài một số lễ nghi được tổ chức tại từng nhà, phần lớn bà con đều tập trung tại chùa để thực hiện các nghi thức, nghi lễ và cùng sinh hoạt vui chơi giải trí tại đó. Vì thế, trước thời điểm của những ngày tết khoảng từ một tháng đến một tuần, tại hầu hết các ngôi chùa Khmer, cũng như tại từng hộ gia đình, người ta tiến hành dọn dẹp nhà cửa thật sạch sẽ, ngăn nắp, đôi khi người ta còn phải tu bổ lại một số công trình kiến trúc trong chùa cho thật khang trang, nhất là các ngôi tháp thờ hài cốt của thân nhân họ hàng để làm sao đón mừng năm mới thật có ý nghĩa… Riêng đối với từng gia đình trong phum sóc, ngoài việc dọn dẹp nhà cửa, bà con còn chuẩn bị các loại bánh trái như: bánh tét, bánh ít, bánh gừng, hoa quả, nhang đèn để đem vào chùa dâng cúng cho Chư Phật, các vị Chư Tăng, thánh thần; đồng thời cũng để tiếp khách khi có người đến thăm 

 
Nghi thức rước Maha Sangkran (đại lịch) đánh dấu giây phút giao thừa, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới
Nghi thức rước Maha Sangkran (đại lịch) đánh dấu giây phút giao thừa, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới

Nếu người Việt, người Hoa và một số dân tộc khác ở Châu Á đón tết năm mới vào ngày đầu tháng giêng âm lịch, thì người Khmer Nam bộ lại tổ chức đón tết vào tháng “Chét” (tháng thứ 5 theo lịch Khmer)[1], vào khoảng trung tuần tháng 4 dương lịch, tương ứng khoảng từ 12 đến 16 tháng 4 dương lịch và diễn ra trong thời gian 3 ngày đêm. Đây là thời điểm thời tiết rất khô ráo, mùa màng đã gặt hái xong, là lúc các thành viên trong cộng đồng được rảnh rang, thoải mái nhất. Trước đây, người Khmer tổ chức đón năm mới vào tháng đầu tiên của năm – tháng Mic-ka-sê (tương ứng khoảng tháng 12, tháng 1 dương lịch), tuy nhiên do thấy vào thời điểm này mùa mưa vẫn còn chưa dứt hẳn, gây nhiều khó khăn trong việc vui chơi 3 ngày tết, nên về sau này[2] người Khmer đã dời thời điểm đón tết vào mùa khô như hiện nay.

Theo phong tục, người Khmer thường tổ chức “ăn tết” trong thời gian 3 ngày, song có những năm nhuận thì bà con tổ chức 4 ngày. Ngày đầu tiên của năm mới gọi là “Th’ngay-maha-shang-kran” hoặc “Chôl-shang- kran-thmây”; ngày thứ hai gọi là ngày “Ví-ré Won-both”; (năm nhuận thì Won-both 2 ngày); còn ngày cuối gọi là ngày “Ví-ré Lơng-săk”[1]. Sinh khí tết chỉ thật sự tới khi mọi nhà, mọi chùa tiến hành nghi lễ đón giao thừa. Đối với người Khmer, việc đón giao thừa có phần khác đôi chút so với người Kinh, người Hoa hoặc một số dân tộc khác chịu sự ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, văn hóa Phương Tây. Nghĩa là giờ giao thừa của tết người Khmer không cố định vào lúc 0 giờ tiếp giáp giữa năm cũ và năm mới, mà luôn thay đổi hàng năm tùy vào quyển “Đại lịch”  đã được các nhà thiên văn biên soạn. Tức là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới sẽ được ấn định vào những thời điểm khác nhau theo từng năm. Có năm nó được ấn định vào lúc 13 giờ của ngày đầu tiên, có năm thì rơi vào ban đêm, có năm thì lại vào khoảng 9 hoặc 10 sáng của ngày thứ hai... Có thể nói đây cũng là nét riêng, phản ánh rất rõ về sắc thái văn hóa Khmer.
 
Đồng bào Khmer ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) gói bánh tét nhân dịp lễ vào năm mới
Đồng bào Khmer ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) gói bánh tét nhân dịp lễ vào năm mới

Theo truyền thống, gần đến thời khắc giao thừa, mọi nhà (kể cả tại các chùa chiền) sẽ bày ra các thứ lễ vật hoa quả[1]; nhang đèn đặt trên một chiếc bàn ở ngay trước sân nhà để làm lễ tiễn Tevôđa (Chư Thiên) cũ về trời, rước Tevôđa mới giáng trần. Người Khmer tin rằng Tevôđa chính là vị Chư Thiên ngự ở tầng trời, được thần Prés-anh (Ngọc Hoàng) sai xuống trần gian để chăm lo cho dân chúng và muôn loài trong một năm, hết năm lại đưa các vị khác xuống thay thế. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay tại việc tổ chức nghi thức này không còn long trọng và linh thiêng như các thời kỳ trước đây.Ba ngày lễ chính thức của tết Chôl-chnăm-thmây được diễn ra như sau:

                                             * Ngày thứ nhất “Th’ngay Maha-shang-kran”:

Thường được bắt đầu khoảng từ 7 giờ sáng hoặc 5 giờ chiều, tức phải vào giờ tốt, khi đó bà con Khmer sẽ ăn vận sạch đẹp, mang theo nhang đèn cùng một số lễ vật cần thiết khác đi đến chùa để làm kễ rước quyển Đại Lịch “Maha-shang-kran” mới. Tại đây, dưới sự điều khiển của một vị Acha[1], mọi người sẽ đứng xếp theo hàng (từ 2 hàng trở lên) rồi đi vòng quanh Chánh Điện 3 vòng theo chiều kim đồng hồ để làm lễ chào mừng năm mới và cũng để xem năm mới này tốt hay xấu, thuận lợi khó khăn như thế nào... Bởi lẽ, ngay sau khi làm lễ rước lịch Maha-shang-kran, vị Acha sẽ đọc ngay nội dung được ghi trong đó, dự báo về các hiện tượng tự nhiên sẽ xảy ra trong năm như: lượng mưa, lũ lụt, giông gió, sấm chớp… để cho mọi thành viên trong cộng đồng chuẩn bị tâm thế trong vụ mùa mới sắp được bắt đầu.

Nghi thức rước Maha-shang-kran thường được dựa theo huyền thoại Bà-la-môn “Thomabal-Koma và Kabâl Maha-prum”. Chuyện kể rằng, chàng trai Thomabal- Koma thông minh tài giỏi đã chiến thắng trong một cuộc đấu lý với Kabal Maha-prum là vị thần có bốn gương mặt, chuyên xuống trần gian thuyết pháp dạy đời. Thua cuộc, thần đã tự chặt đầu mình, đưa cho 7 cô công chúa[1] là con gái của mình và căn dặn hãy để đầu thần trên một khay vàng, rồi đem đi quàng tại hang thủy tinh Thomamialy nơi núi Kay-las thuộc dãy Hymalaya, không được quăng đầu Ngài xuống biển hay lên núi rừng, hoặc vào không trung. Bởi chiếc đầu Ngài khi rơi vào những không gian đó sẽ thiu rụi mọi thứ, đúng hơn là sự đau khổ và cái chết sẽ không tránh khỏi. Suy cho cùng, thì đầu bốn mặt của thần Kabal Maha-prum chính là biểu tượng của bốn đức tính: Từ, Bi, Hỉ, Xả mà mọi người, cả loài súc sinh luôn phải có trong mình nhằm đạt được cuộc sống viên mãn.

Từ đó về sau, mỗi năm, đúng vào ngày thần tự sát, bảy cô công chúa giáng trần, vào hang bưng khay đầu lâu của cha đến núi Kay-las (Tudi) gội rửa, rồi đi vòng quanh chân núi 3 lần theo hướng mặt trời mọc, trước khi đem đặt lại vị trí cũ. Đây cũng là biểu tượng cho sự sinh sôi, phát triển (bởi con số 3 là số dương, là số đại diện cho sự sung túc no đủ). Mỗi năm một cô công chúa sẽ bưng khay đầu lâu một lần, nên tùy theo số mạng của công chúa Tiên nữ nào bưng mà người ta sẽ biết được năm đó tốt hay xấu.

Thay vì rước đầu lâu, đối với người Khmer Nam bộ vào dịp ngày đầu năm mới bà con lại rước Maha-shang-kran (Quyển Đại lịch) đi vòng quanh ngôi chánh điện 3 vòng theo như huyền thoại trên. Sau lễ rước Maha-shang-kran, mọi người vào lễ Phật, tụng kinh mừng năm mới. Đến đêm thì tiếp tục nghe nhà sư thuyết pháp. Riêng các chàng trai, cô gái sau khi thắp nhang lễ Phật, họ cùng dạo chơi trong khuôn viên chùa hoặc để xem hay cùng tham gia các cuộc vui chơi múa hát.


Tắm Phật là nghi lễ quan trọng trong dịp lễ vào năm mới của đồng bào Khmer Nam Bộ
Tắm Phật là nghi lễ quan trọng trong dịp lễ vào năm mới
của đồng bào Khmer Nam Bộ


* Ngày thứ hai của lễ Chôl-chnăm-thmây “Ví-ré Won-both”:

Trong ngày thứ hai, không khí tết thật sự đã sôi động hẳn lên trong khắp các phum sóc Khmer cũng như tại cac chùa chiền. Ngay từ sáng sớm, mọi người đã kéo nhau vào chùa, trước hết họ thắp hương, lễ Phật, sau đó dâng cơm cho các vị sư… Riêng các chàng trai, cô gái thì tổ chức các trò chơi dân gian, rồi cùng nhau chia nhóm vui chơi cho đến chiều tối. Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, tại một số chùa điển hình như chùa Sereyvongsa (Hòa Bình Mới) huyện Hòa Bình, chùa Komphisako (Xiêm cán) thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đồng bào thường tổ chức các trò chơi dân gian trong suốt 3 ngày liền. Bên cạnh các trò chơi truyền thống như Chôl-chhung (Ném còn), kéo co, đẩy cây, Lek-kon-sêng (Bịt mắt bắt dê)… họ còn đưa vào thi đấu một số môn thể thao khác như bóng đá mini, bóng chuyền và nhiều trò chơi mang tính hiện đại mà ta thường bắt gặp tại các cuộc sinh hoạt của tuổi trẻ đoàn viên thanh niên.

Cũng trong ngày thứ hai này, đặc biệt vào lúc chiều, người ta thường tổ chức lễ đắp núi cát gọi là “Pun-phnum-kh’sach”. Đây là một tập tục theo quan niệm của người Khmer cho rằng, nó sẽ mang lại cái Anishang (Phúc) rất lớn. Theo thông lệ, thì mọi người đến dự lễ sẽ mang theo một ít cát sạch đem vào chùa, đổ thành đống chung quanh ngôi chánh điện. Vị Acha hướng dẫn mọi người đắp thành những ngọn núi nhỏ ở chín hướng và rào lại bằng tre hoặc cây. Những núi này tượng trưng cho vũ trụ, mỗi núi ở một hướng và núi thứ 9 ở giữa là trung tâm của thế giới. Sau đó người ta làm lễ “qui y” cho núi và đến sáng hôm sau thì làm lễ “xuất thể”. Một ý nghĩa khác cho rằng tục đắp núi cát (hoặc núi đất, núi thóc…) là biểu hiện của ma thuật, vì xưa kia người Khmer tin rằng núi có thể cản mây và do đó đắp núi là để ngăn lại các đám mây, cầu cho mưa mau đến để bà con khởi sự làm mùa.
 
Đắp núi cát với mong ước tẩy trừ những điều xấu trong năm cũ và cầu mong những điều tốt lành trong năm mới
Đắp núi cát với mong ước tẩy trừ những điều xấu trong năm cũ và cầu mong những điều tốt lành trong năm mới

                                    * Ngày thứ 3 của lễ Chôl-chnăm-thmây “Ví-ré Lơng-săk”:

Là ngày lễ “Tắm tượng Phật, tắm sư sãi”. Cũng như những ngày trước đó, sau khi dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư, mọi người đem nước ướp vật có hương thơm cùng nhau đem đến bên bàn thờ Phật để làm lễ tắm tượng Phật, kế tiếp là tắm cho các vị sư cao niên. Xong lễ tại chùa, người ta mời các vị sư đến các ngôi tháp đựng hài cốt hoặc tới các ngôi mộ lẻ làm lễ cầu siêu, gọi là “Băng Skôl” cho vong linh những người đã khuất. Tuy nhiên nhiều chùa còn tổ chức lễ cầu siêu chung cho tất cả những người đã khuất một lần tại ngôi Sala hay tại ngôi tháp tập thể. Cuối cùng họ về nhà làm lễ tắm tượng Phật thờ tại nhà, xong thì tắm cho ông bà cha mẹ để tạ lỗi, xin được tha thứ những lỗi lầm, thiếu sót trong năm cũ, rồi đem bánh trái, tiền, quà dâng cho ông bà, cha mẹ. Đến đêm họ tiếp tục cúng bái Têvôđa mới hoặc có những gia đình còn mời các vị sư đến tụng kinh chúc phúc để năm mới phát tài phát lộc. Đồng thời họ tổ chức vui chơi cho đến khuya mới chấm dứt.

Có thể nói, các nghi thức, lễ tiết trong những ngày tết cổ truyền của người Khmer Nam bộ hiện vẫn còn lưu giữ khá tốt. Riêng lễ tắm sư sãi có nhiều chùa không còn tổ chức mà chỉ làm lễ tắm tượng Phật. Bởi trong phần lớn các ngôi chùa Khmer hiện nay không còn nhiều các bậc Hòa thượng cao niên./.

  

Có thể bạn quan tâm

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Sắc màu dân tộc thiểu số ở Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh có trên 39 vạn người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (chiếm 11,02% dân số toàn tỉnh) với nhiều thành phần dân tộc, trong đó có 7 thành phần dân tộc thiểu số chủ yếu gồm: Nùng, Tày, Sán Dìu, Hoa, Cao Lan, Sán Chí, Dao (chiếm 97,78% tổng số người dân tộc thiểu số). Mỗi dân tộc có trang phục, tập quán riêng tạo sự khác biệt và đa dạng văn hóa cho vùng đất này.

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Quảng bá thương hiệu trà Shan tuyết

Ngày 5/11, tại Nhà văn hóa Trung tâm, phường An Tường (Tuyên Quang), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tuyên Quang tổ chức Hội thi sản phẩm trà Shan tuyết và kỹ thuật pha chế trà năm 2025.

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.