Thương hiệu chè Thái Nguyên vươn ra thế giới

Thương hiệu chè Thái Nguyên vươn ra thế giới

Mặc dù chè Thái Nguyên đã chinh phục biết bao người sành chè bởi hương thơm đậm vị nhưng câu chuyện xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm này vẫn là điều trăn trở của các nhà doanh nghiệp, người trồng chè, người tiêu dùng và nhà khoa học, nhất là trong thời điểm Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng.

Tháng 8/2006, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” và Hội nông dân tỉnh Thái Nguyên được giao là chủ sở hữu. Đây cũng là sản phẩm đặc thù đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên được bảo hộ nhãn hiệu tập thể.

Thương hiệu chè Thái Nguyên vươn ra thế giới ảnh 1 Đại diện lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên trao Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” tại Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc cho Hội Nông dân tỉnh làm chủ sở hữu. Ảnh: Thu Hằng-TTXVN

Năm 2018, nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” đã được đăng ký bảo hộ thành công tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc). Sau đó, một loạt nhãn hiệu của các vùng chè đặc sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên như chè La Bằng, chè Trại Cài, chè Vô Tranh, chè Tức Tranh... đã được bảo hộ góp phần nâng cao giá trị và thu hút sự quan tâm đặc biệt của thị trường với các sản phẩm chè Thái Nguyên.

Bà Phạm Thị Hiền, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Nguyên cho biết: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực. Do vậy, việc xây dựng và phát triển nhãn hiệu tập thể “chè Thái Nguyên” tại các thị trường có tiềm năng xuất khẩu là một đòi hỏi cần thiết của thực tế”.

Tháng 3/2018, UBND tỉnh Thái Nguyên tiếp tục giao cho Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên tại Nga, Nhật Bản và Hàn Quốc. Với quyết tâm và nỗ lực của các cơ quan liên quan, sau hơn 3 năm thẩm định hồ sơ, nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên đã được cơ quan sở hữu trí tuệ của 3 quốc gia trên cấp văn bằng bảo hộ.

Như vậy, đến thời điểm này, nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên đã chính thức được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Điều này khẳng định uy tín, chất lượng, danh tiếng và giá trị của chè Thái Nguyên, đồng thời là điều kiện thuận lợi để đưa sản phẩm chè Thái Nguyên đến với thế giới, góp phần nâng cao vị thế của chè Thái Nguyên.

Nhận định về vấn đề này, ông Tô Văn Khiêm, Chủ tịch Hội đồng quản trị chè an toàn Khe Cốc (huyện Phú Lương) cho biết, việc chè Thái Nguyên được bảo hộ nhãn hiệu tập thể tại các thị trường quốc tế có thể ví như một “bà đỡ” giúp doanh nghiệp chè thuận lợi hơn trong việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm chè của mình gia nhập thị trường mới. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư máy móc, trang thiết bị để đa dạng hóa các sản phẩm chè, từ đó đưa ra nhiều sản phẩm phù hợp với thị hiếu của mỗi nước.

Thái Nguyên là tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước với 22,7 nghìn ha, sản lượng đạt trên 244,5 nghìn tấn. Sản phẩm chè Thái Nguyên được chế biến bằng phương pháp truyền thống bán cơ giới và công nghiệp. Sản phẩm chè Thái Nguyên đã có mặt trên thị trường 63 tỉnh, thành phố trong cả nước và một số nước trên thế giới. Giá trị sản phẩm thu được bình quân trên 1 ha chè đạt 270 triệu đồng/ha.

Đặc biệt, thị trường trong nước đang là thế mạnh của chè Thái Nguyên, đạt gần 40 nghìn tấn với giá tiêu thụ trong nước luôn cao hơn các vùng chè khác và tương đối ổn định, hiện đang ở mức từ 120-220 nghìn đồng/kg chè thành phẩm loại trung bình; từ 280-450 nghìn đồng/kg chè xanh đặc sản; chè đặc sản cao cấp có giá từ 2,5-3 triệu đồng/kg.

Tuy nhiên, khó khăn của ngành chè Thái Nguyên hiện nay là diện tích chè an toàn, chè hữu cơ rất ít, tỷ lệ chứng nhận chất lượng an toàn VietGAP mới đạt gần 10% tổng diện tích.

Ngoài ra, việc liên kết giữa các tác nhân liên quan đến chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị ngành chè chưa chặt chẽ, chủ yếu vẫn là người trồng chè tự chế biến và tiêu thụ, số đơn vị, doanh nghiệp có liên kết với người trồng chè chưa nhiều, chưa tạo được sản lượng lớn sản phẩm chè chế biến chất lượng cao.

Mặc dù được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới nhưng chủ yếu là chè nguyên liệu với giá bình quân chỉ bằng 60% so với giá bán trên thị trường thế giới, dùng để đấu trộn với các loại chè khác hoặc để chiết xuất.

Theo bà Nguyễn Thị Ngà, Chủ tịch Hội Chè Thái Nguyên, để giúp các doanh nghiệp chè Thái Nguyên tiếp cận và xuất khẩu sản phẩm chè sang thị trường các nước đã được bảo hộ, điều kiện cần thiết là phải kiểm soát được vùng nguyên liệu, kiểm soát quá trình canh tác và thu hái.

Bên cạnh đó, phải từng bước thực hiện số hóa trong quản lý sản xuất và thực hiện cấp mã số vùng trồng để giám sát nghiêm ngặt quy trình sản xuất và minh bạch trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Ngoài ra, phải đảm bảo các tiêu chuẩn cho chè xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường hoặc đối tác. Cụ thể là cần nghiên cứu các tiêu chuẩn chính được áp dụng trong ngành như ISO, hữu cơ, các yêu cầu về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, các tiêu chuẩn về bền vững và trách nhiệm xã hội như RFA, UTZ, Fair Trade…

Hơn nữa, các doanh nghiệp chè phải luôn cải tiến, hoàn thiện nhà xưởng và công nghệ theo yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật, từng bước đầu tư, ứng dụng công nghệ chế biến hiện đại, tự động hóa để nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm chè.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đang tiến hành xây dựng chứng nhận mã số vùng trồng cho 17 vùng sản xuất với sự tham gia của 238 hộ, ở 16 hợp tác xã và 1 công ty, với tổng diện tích hơn 108ha, chủ yêu là chè.

Theo ông Nguyễn Tá, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên: Xây dựng mã số vùng trồng là một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng cao giá trị, chất lượng, thương hiệu sản phẩm cây trồng, phục vụ tốt cho việc nội tiêu và xuất khẩu đối với nhóm cây trồng chủ lực của Thái Nguyên; trong đó, chủ yếu là cây chè.

Bởi vậy, khi được cấp mã số vùng trồng, sản phẩm chè của Thái Nguyên sẽ được nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy liên kết, hình thành các chuỗi giá trị bền vững, mang lại giá trị kinh tế cao cho người trồng chè khi có các đơn hàng xuất khẩu.

Thu Hằng

(TTXVN)

Có thể bạn quan tâm

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Thu nhập cao từ trồng nhãn chín sớm, trái vụ

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Ngoan Hậu, xã Chiềng Khương, tỉnh Sơn La đã đầu tư hệ thống tưới nước vảy gốc, áp dụng kỹ thuật vào canh tác, chăm sóc, ghép các giống nhãn chín sớm, trái vụ, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, giá trị của quả nhãn được nâng lên, có đầu ra ổn định.

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

OCOP tạo 'cú hích' chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị

Tại tỉnh Vĩnh Long, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã tạo “cú hích” thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển đổi từ sản xuất nhỏ lẻ sang chuỗi giá trị bài bản, ứng dụng công nghệ, truy xuất nguồn gốc và cải tiến bao bì... Từ đó, nhiều đặc sản địa phương vươn tầm thành sản phẩm OCOP 4-5 sao, mở rộng thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu.

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nâng tầm tài nguyên bản địa

Nhiều hợp tác xã tại Quảng Ngãi đã phát triển các sản phẩm OCOP từ thế mạnh địa phương, góp phần nâng cao giá trị tài nguyên bản địa, thúc đẩy sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và xây dựng nông thôn mới.

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Nâng tầm thương hiệu hồ tiêu Gia Lai

Sau nhiều năm gặp khó khăn do giá cả bấp bênh và dịch bệnh gây hại cây trồng, người trồng hồ tiêu tại tỉnh Gia Lai đang bước vào một vụ mùa thắng lợi khi vừa được mùa, vừa được giá. Cùng với đó, các hợp tác xã và doanh nghiệp địa phương cũng đang đẩy mạnh sản xuất theo hướng hữu cơ bền vững, gia tăng giá trị và mở rộng thị trường cho sản phẩm hồ tiêu Gia Lai.

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Phong trào 'Bình dân học vụ số' lan tỏa sâu rộng ở vùng cao Điện Biên

Nhằm phổ cập kiến thức và kỹ năng số cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp xúc với công nghệ, tại tỉnh Điện Biên, phong trào “Bình dân học vụ số” đang được triển khai và lan tỏa sâu rộng. Điều này không chỉ giúp người dân vùng cao chủ động tiếp cận và làm chủ công nghệ số, mà còn hình thành cộng đồng thích ứng với chuyển đổi số, góp phần phục vụ hiệu quả công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Biến nông sản ít giá trị thành sản phẩm OCOP

Tận dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, nhất là các loại nông sản có giá trị kinh tế thấp, nhiều người dân ở tỉnh An Giang đã đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, chế biến, vừa nâng cao thu nhập gia đình, vừa góp phần tiêu thụ nông sản, tạo việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều người dân khu vực nông thôn.

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Chuyển đổi số tạo đà phát triển cho các hợp tác xã

Tại tỉnh Cà Mau, chuyển đổi số đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã khi góp phần thay đổi phương thức sản xuất, giải phóng sức lao động; giúp các hợp tác xã nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất, tham gia vào chuỗi giá trị. Với tầm quan trọng như vậy, Liên minh Hợp tác xã tỉnh Cà Mau đang đẩy mạnh các giải pháp để giúp các hợp tác xã thực hiện thành công chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Chuyển đổi cây trồng cho hiệu quả cao trên vùng phèn trũng

Long Hưng là xã được hợp nhất trên cơ sở 2 xã Long Hưng và Hưng Phú, thuộc thành phố Cần Thơ. Địa bàn xã nằm trên vùng phèn trũng cách trung tâm thành phố Cần Thơ hơn 40 km. Xã có diện tích gần 80 km2, dân số hơn 33.500 người, là xã thuần nông nên nên điều kiện kinh tế - xã hội, đi lại còn rất nhiều khó khăn, nhất là sau khi hợp nhất.

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Vùng chuyên canh mắc ca ở xã vùng biên Lâm Đồng

Với hơn 1.500 ha đất trồng mắc ca, xã Quảng Trực đã hình thành một vùng chuyên canh với diện tích, sản lượng lớn nhất tỉnh Lâm Đồng. Loại cây này cũng giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, và góp phần nâng cao độ che phủ rừng tại nơi phên dậu Tổ quốc.

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Hợp tác xã ở Điện Biên chủ động chuyển đổi, tăng giá trị sản xuất

Trước những biến động của thị trường, giá cả nông sản thiếu ổn định, nhiều hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã chủ động tìm hướng đi mới: mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng kỹ thuật hiện đại, mở rộng kênh bán hàng trực tuyến. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho thành viên, người lao động địa phương.

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Cơ cấu mùa vụ sản xuất tránh hạn và mặn xâm nhập mặn

Sóc Trăng là địa phương trực tiếp và chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán và nước mặn xâm nhập) đến sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, ngành chức năng tỉnh đã xây dựng kế hoạch cơ cấu mùa vụ sản xuất trong năm đối với từng địa phương, đem lại hiệu quả cho nhiều hộ nông dân.

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Nuôi cá tầm - hướng đi xóa nghèo cho đồng bào vùng cao

Sau nhiều năm cố gắng, nỗ lực với nghề nuôi cá tầm, ông Giàng A Hồ ở bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên (Sơn La) đã thoát nghèo, từng bước vươn lên trở thành hộ khá. Ông trở thành tấm gương trong phát triển kinh tế gia đình của cộng đồng các dân tộc vùng cao nơi còn rất nhiều khó khăn.

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Đẩy mạnh chế biến sâu, nâng cao giá trị nông sản đặc thù

Để thiết lập chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến chế biến, nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu sản phẩm để gia tăng giá trị cho nông sản địa phương, tỉnh Ninh Thuận đang tập trung xây dựng các vùng sản xuất nông sản quy mô lớn; đồng thời thu hút doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến.

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Nông dân thu nhập hàng trăm triệu đồng từ mùa chuối 'ngọt'

Chuối xiêm là cây trồng chủ lực tại khu vực vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng hơn 20 năm qua. Nơi đây được mệnh danh là vương quốc chuối của tỉnh Kiên Giang. Từ đầu năm 2025 đến nay, giá chuối xiêm ở huyện U Minh Thượng duy trì ở mức cao mang lại niềm vui và nguồn thu nhập khá cho người dân.

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Chuyển trên 15.800 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng mít xuất khẩu

Nhằm chuyển đổi sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, giảm nhẹ thiên tai những địa bàn canh tác khó khăn, các huyện vùng ngập lũ và vùng Đồng Tháp Mười phía Tây tỉnh Tiền Giang: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước, thị xã Cai Lậy đã chuyển trên 15.800 ha đất trồng lúa hiệu quả thấp, bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm trước đây sang trồng mít Thái chuyên canh phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Nâng cao kỹ năng sống cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số

Sóc Trăng có trên 35% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có 30% dân số là đồng bào Khmer. Việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện. Trong dịp Hè năm 2025, ngành chức năng tỉnh Sóc Trăng tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp trẻ em có điều kiện vui chơi, nâng cao kỹ năng sống.

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối Gia Lai chinh phục các thị trường khó tính

Sản phẩm chuối của tỉnh Gia Lai đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Đông… Điều này khẳng định chất lượng và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt Nam nói chung và Gia Lai nói riêng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, để giữ vững và phát huy thành quả này, các doanh nghiệp trồng cây ăn quả, đặc biệt là chuối cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, trồng, chăm sóc đến khâu thu hoạch và bảo quản.

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Điện lực Đắk Nông nâng cao năng lực xử lý sự cố, ứng phó thiên tai

Nhằm chủ động ứng phó với thiên tai và nâng cao khả năng xử lý sự cố trên lưới điện, Công ty Điện lực Đắk Nông vừa tổ chức diễn tập phương án phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2025. Cùng với đó, Công ty cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực ứng phó trước các tình huống bất ngờ do thiên tai gây ra.

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Chuyển đổi số là cơ hội để Lào Cai bứt phá, vươn lên

Ngày 21/5, tại Hội nghị trực tuyến triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, triển khai phong trào “Bình dân học vụ số”, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai Trịnh Xuân Trường khẳng định, chuyển đổi số là cơ hội để tỉnh bứt phá vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các tỉnh, thành phố phát triển trong cả nước.