Bảo tồn tiếng dân tộc Tày, Nùng trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng

Ngày 29/5, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng tổ chức vòng chung kết Cuộc thi “Bảo tồn tiếng dân tộc Tày, Nùng cho học sinh Trung học cơ sở, Trung học phổ thông trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng".

Một tiết mục trong phần thi năng khiếu thể hiện bằng tiếng Tày-Nùng.

Một tiết mục trong phần thi năng khiếu thể hiện bằng tiếng Tày-Nùng.

Tại vòng thi chung kết, 8 đội thi của hai khối Trung học cơ sở, Trung học phổ thông tham gia ba phần thi là thi trắc nghiệm kiến thức, thi năng khiếu, thi bốc thăm và trả lời câu hỏi. Các tiết mục được thể hiện bằng tiếng Tày, Nùng một cách linh hoạt, sinh động, phản ánh sự sáng tạo, niềm tự hào dân tộc và hiểu biết sâu sắc của học sinh về văn hóa truyền thống, góp phần lan tỏa ý thức gìn giữ, phát huy tiếng nói bản địa trong thế hệ trẻ.

Một tiết mục giới thiệu quy trình làm bánh cuốn Cao Bằng bằng tiếng Tày-Nùng.

Một tiết mục giới thiệu quy trình làm bánh cuốn Cao Bằng bằng tiếng Tày-Nùng.

Kết thúc vòng chung kết, Ban Tổ chức đã trao Giải Nhất khối Trung học cơ sở cho Trường Trung học cơ sở xã Minh Thanh (huyện Nguyên Bình), Giải Nhất khối Trung học phổ thông cho Trường Trung học phổ thông Đàm Quang Trung (huyện Hà Quảng).

Ban Tổ chức trao giải Nhì khối THCS cho Trường Trung học cơ sở Minh Thanh, tỉnh Cao Bằng.

Ban Tổ chức trao giải Nhì khối THCS cho Trường Trung học cơ sở Minh Thanh, tỉnh Cao Bằng.

Cuộc thi “Bảo tồn tiếng dân tộc Tày, Nùng cho học sinh Trung học cơ sở, Trung học phổ thông trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng" phát động vào cuối tháng 3/2025. Đối tượng dự thi là thành viên câu lạc bộ “Cùng em khám phá Công viên địa chất” của các trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Cao Bằng, các huyện Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang, Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình, Thạch An (các đơn vị trường nằm trong vùng Công viên địa chất Non nước Cao Bằng).

Ban Tổ chức trao giải Nhất khối THPT cho Trường Trung học phổ thông Đàm Quang Trung, tỉnh Cao Bằng.

Ban Tổ chức trao giải Nhất khối THPT cho Trường Trung học phổ thông Đàm Quang Trung, tỉnh Cao Bằng.

Ban Tổ chức tiếp nhận 57 hồ sơ dự thi tại vòng sơ khảo, trong đó, có 35 hồ sơ từ khối Trung học cơ sở và 22 hồ sơ từ khối Trung học phổ thông. Các sản phẩm dự thi đảm bảo chất lượng, khoa học, hình thức sinh động, hấp dẫn, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực trong cộng đồng và trường học.

Tại vòng bán kết, các thí sinh tham gia tranh tài ở hai phần thi chính: “Tuyên truyền viên giỏi” và năng khiếu. Kết thúc vòng bán kết, Ban Tổ chức chọn ra 8 đội thi xuất sắc bước vào vòng chung kết, gồm 4 đội khối Trung học cơ sở và 4 đội khối Trung học phổ thông.

Ban Tổ chức trao giải Nhì khối THPT cho Trường Trung học phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Cao Bằng.

Ban Tổ chức trao giải Nhì khối THPT cho Trường Trung học phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh Cao Bằng.

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Cao Bằng Nông Thị Tuyến nhấn mạnh, cuộc thi đã thúc đẩy phong trào học tập và sử dụng tiếng dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, qua đó, góp phần ngăn chặn nguy cơ mai một ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Đồng thời nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của học sinh và người dân Cao Bằng đối với việc giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc; giới thiệu nét đẹp đặc sắc và các điểm di sản của Công viên địa chất Non nước Cao Bằng bằng chính ngôn ngữ của dân tộc bản địa, góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của vùng đất Cao Bằng, thúc đẩy du lịch cộng đồng, phát triển kinh tế dựa trên đặc trưng văn hóa địa phương…/.

Dân tộc Nùng

Tên tự gọi: Nồng.

Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...

Dân số: 968.800 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc...

Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.

Hoạt động sản xuất: Người Nùng làm việc rất thành thạo nhưng do cư trú ở những vùng không có điều kiện khai phá ruộng nước cho nên nhiều nơi họ phải sống bằng nương rẫy là chính. Ngoài ngô, lúa họ còn trồng các loại củ, bầu bí, rau xanh...

Họ biết làm nhiều nghề thủ công: dệt, rèn, đúc, đan lát, làm đồ gỗ, làm giấy dó, làm ngói âm dương... Nhiều nghề có truyền thống lâu đời nhưng vẫn là nghề phụ gia đình, thường chỉ làm vào lúc nông nhàn và sản phẩm làm ra phục vụ nhu cầu của gia đình là chính. Hiện nay, một số nghề có xu hướng mai một dần (dệt), một số nghề khác được duy trì và phát triển (rèn). Ở xã Phúc Sen (huyện Quảng Hoà, Cao Bằng) rất nhiều gia đình có lò rèn và hầu như gia đình nào cũng có người biết làm nghề rèn.

Chợ ở vùng người Nùng phát triển. Người ta thường đi chợ phiên để trao đổi mua bán các sản phẩm. Thanh niên, nhất là nhóm Nùng Phàn Slình, thích đi chợ hát giao duyên.

Ăn: Ở nhiều vùng người Nùng ăn ngô là chính. Ngô được xay thành bột để nấu cháo đặc như bánh đúc. Thức ăn thường được chế biến bằng cách rán, xào, nấu, ít khi luộc. Nhiều người kiêng ăn thịt trâu, bò, chó.

Mặc: Y phục truyền thống của người Nùng khá đơn giản, thường làm bằng vải thô tự dệt, nhuộm chàm và hầu như không có thêu thùa trang trí. Nam giới mặc áo cổ đứng, xẻ ngực, có hàng cúc vải. Phụ nữ mặc áo năm thân, cài cúc bên nách phải, thường chỉ dài quá hông.

: Người Nùng cư trú ở các tỉnh Ðông Bắc nước ta, họ thường sống xen kẽ với người Tày. Phần lớn ở nhà sàn. Một số ở nhà đất làm theo kiểu trình tường hoặc xây bằng gạch mộc. Ở ven biên giới trước kia còn có loại nhà làm theo kiểu pháo đài, có lô cốt và lỗ châu mai để chống giặc cướp.

Phương tiện vận chuyển: Các phương thức vận chuyển truyền thống là khiêng, vác, gánh, mang, xách. Hiện nay ở một số địa phương người Nùng sử dụng xe có bánh lốp do các vật kéo để làm phương tiện vận chuyển.

Quan hệ xã hội: Trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Nùng đã đạt đến trình độ phát triển như ở người Tày. Ruộng và nương thâm canh đã biến thành tài sản tư hữu, có thể đem bán hay chuyển nhượng. Hình thành các giai cấp: địa chủ và nông dân.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu và khi yêu nhau họ thường trao tặng nhau một số kỷ vật. Các chàng trai tặng các cô gái đòn gánh, giỏ đựng con bông (hắc lì) và giỏ đựng con sợi (cởm lót).Còn các cô gái tặng các chàng trai áo và túi thêu.

Tuy nhiên hôn nhân lại hoàn toàn do bố mẹ quyết định, trên cơ sở hai gia đình có môn đăng hộ đối không và lá số đôi trai gái có hợp nhau hay không. Nhà gái thường thách cưới bằng thịt, gạo, rượu và tiền. Số lượng đồ dẫn cưới càng nhiều thì giá trị của người con gái càng cao. Việc cưới xin gồm nhiều nghi lễ, quan trọng nhất là lễ đưa dâu về nhà chồng. Sau ngày cưới cô dâu vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến sắp có con mới về ở hẳn nhà chồng.

Sinh đẻ: Ngoài lễ đặt bàn thờ bà mụ và lễ mừng trẻ đầy tháng ở một số nhóm Nùng còn tổ chức lễ đặt tên cho trẻ khi chúng đến tuổi trưởng thành.

Ma chay: Có nhiều nghi lễ với mục đích chính là đưa hồn người chết về bên kia thế giới.

Nhà mới: Làm nhà mới là một trong nhiều công việc hệ trọng. Vì thế khi làm nhà người ta rất chú ý tới việc chọn đất, xem hướng, chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới với ước mong có cuộc sống yên vui, làm ăn phát đạt.

Thờ cúng: Thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ đặt ở nơi trang trọng, được trang hoàng đẹp, ở vị trí trung tâm là bức phùng slằn viết bằng chữ Hán cho biết tổ tiên thuộc dòng họ nào. Ngoài ra còn thờ thổ công, Phật bà Quan âm, bà mụ, ma cửa, ma sàn, ma ngoài sàn (phi hang chàn)... và tổ chức cầu cúng khi thiên tai, dịch bệnh... Khác với người Tày, người Nùng tổ chức mừng sinh nhật và không cúng giỗ.

Lễ tết: Người Nùng ăn tết giống như ở người Việt và người Tày.

Lịch: Người Nùng theo âm lịch.

Học: Có chữ nôm Nùng dựa theo chữ Hán, đọc theo tiếng Nùng và chữ Tày - Nùng trên cơ sở chữ cái La-tinh.

Văn nghệ: Sli là hát giao duyên của thanh niên nam nữ dưới hình thức diễn xướng tập thể, thường là đôi nam, đôi nữ hát đối đáp với nhau và được hát theo hai bè.

Người ta thường Sli với nhau trong những ngày hội, ngày lễ, ngày chợ phiên, thậm chí ngay trên tàu, trên xe.

Chơi: Trong các ngày tết, ngày lễ, ngày hội thường có một số trò chơi như tung còn, đánh cầu lông, đánh quay, kéo co...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Nùng
Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Tày

Có thể bạn quan tâm

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Người giữ nhịp dân ca Bru - Vân Kiều giữa đại ngàn Trường Sơn

Cứ mỗi buổi chiều đến, trong căn Nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở khóm 6, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lại vang lên những âm thanh mộc mạc mà quen thuộc. Đó là tiếng đàn, tiếng hát của lớp học dân ca Bru - Vân Kiều. Giữa không gian ấy, hình ảnh ông Hồ Văn Mang, chỉnh từng câu hát, từng âm, từng vần, bắt từng nhịp đàn, vẫn cần mẫn truyền dạy cho thanh thiếu niên trong bản đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ học trò.

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Nét văn hóa dân tộc Chứt mở hướng du lịch vùng biên

Dân tộc Chứt ở tỉnh Quảng Trị hiện có 2.054 hộ với 8.227 nhân khẩu, sinh sống tập trung chủ yếu tại các xã Kim Phú, Kim Điền, Tuyên Lâm, Dân Hóa và Thượng Trạch. Tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực bảo tồn các nét văn hóa dân tộc Chứt thông qua việc xây dựng các Câu lạc bộ văn hóa dân gian, mở ra hướng phát triển du lịch văn hóa vùng biên.

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Rộn ràng chợ phiên vùng cao Keo Lôm

Trong tiết trời se lạnh của buổi sớm mai nơi vùng cao Na Son (Điện Biên), chợ phiên Keo Lôm bừng lên sức sống khi đồng bào các dân tộc mang nông sản, sản vật rừng xuống chợ trao đổi, mua bán. Phiên chợ được họp vào ngày thứ 7 hàng tuần, không chỉ là nơi giao thương quen thuộc của người dân địa phương mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn để du khách khám phá, trải nghiệm những nét văn hóa đặc trưng của vùng cao Điện Biên.

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữ tiếng chiêng linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn

Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, ở phía Tây tỉnh Quảng Trị, nơi những ngọn núi trùng điệp xanh mướt nối tiếp nhau trập trùng, có những bản làng bình yên của người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống bao đời nay. Ở nơi đây, tiếng hát, tiếng đàn, điệu khèn vẫn ngân vang mỗi buổi sớm, chiều. Giữa nhịp sống hiện đại, vẫn có những con người thầm lặng, bền bỉ cống hiến cả cuộc đời để bảo tồn tiếng hát, điệu múa, tiếng cồng chiêng và linh hồn của núi rừng quê hương. Đó chính là cội nguồn, bản sắc độc đáo riêng của dân tộc không thể nào bị lãng quên.

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

“Dáng giày nét Giáy”: Khi người trẻ tham gia bảo tồn nghề làm giày truyền thống của người Giáy

Trước nguy cơ mai một của một trong những di sản văn hóa độc đáo, dự án “Dáng giày nét Giáy” do InterArts Agency thực hiện đã mang đến một hướng tiếp cận mới mẻ thông qua chuỗi hoạt động trải nghiệm thực tế. Nổi bật trong số đó là workshop làm giày thủ công, nơi kết nối các nghệ nhân bản địa với thế hệ trẻ, biến di sản thành chất liệu sáng tạo đầy sức sống trong bối cảnh hiện đại.

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Gần 400 nghệ nhân, diễn viên thi tài ở các tiết mục Then cổ

Tối 26/11 tại Trung tâm Văn hoá - Triển lãm tỉnh, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tổ chức khai mạc Liên hoan hát Then, đàn Tính tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất năm 2025 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy nghệ thuật hát Then, đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”.

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor

Nhân Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (23/11), Bảo tàng Đà Nẵng tổ chức “Ngày hội Di sản văn hóa Đà Nẵng năm 2025” với chủ đề “Đa dạng sắc màu văn hóa vùng cao Đà Nẵng”, nhằm giới thiệu, tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Cor đang sinh sống tại khu vực miền núi phía Tây thành phố.

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Tái hiện đời sống và tín ngưỡng các dân tộc thiểu số qua hàng trăm hình ảnh, hiện vật

Ngày 21/11, tại Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh số 1, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Kỷ niệm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11 và kết quả khảo sát, kiểm kê, sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Sán Dìu tỉnh Bắc Ninh”. Sự kiện thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu các sở, ngành, địa phương cùng nhiều nghệ nhân, cán bộ văn hóa, đại diện cộng đồng các dân tộc thiểu số.

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Đặc sắc không gian văn hóa nhà dài Ê Đê

Ngày 17/11, tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk, Bảo tàng tỉnh tổ chức khai mạc không gian trưng bày, trải nghiệm nhà dài truyền thống và tái hiện “Lễ lên nhà mới” của người Ê Đê. Đây là một trong những nét đặc sặc trong đời sống văn hóa của dân tộc Ê Đê trên cao nguyên Đắk Lắk.

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Triển lãm ảnh 'Sắc màu các dân tộc Việt Nam'

Chiều 15/11, tại Công viên bờ biển Nha Trang (cạnh Tháp Trầm Hương – Quảng trường 2/4), phường Nha Trang, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa khai mạc trưng bày triển lãm 250 bức ảnh với chủ đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”. Đây là hoạt động góp phần gìn giữ, tôn vinh, lan tỏa và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, quý báu của các dân tộc Việt Nam.

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Gìn giữ sợi dây văn hóa kết nối quá khứ với hiện tại

Múa dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên không chỉ là loại hình nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần, tín ngưỡng và phong tục của cộng đồng. Tại tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua, ngành Văn hóa đã nỗ lực gìn giữ và lan tỏa những điệu múa, nhịp xoang của các dân tộc để tiếp tục “giữ hồn” múa dân gian Tây Nguyên.

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Di sản văn hóa Dao trên sân khấu: Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững

Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.

Nhiều hoạt động đặc sắc tại Ngày hội văn hóa - Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì

Nhiều hoạt động đặc sắc tại Ngày hội văn hóa - Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì

Ngày 6/11/2025, tại Trung tâm xã biên giới Thu Lũm (Lai Châu) diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ đặc sắc tại Ngày hội văn hóa – Tết cổ truyền dân tộc Hà Nhì năm 2026 như: Trình diễn cách thức làm bánh dầy truyền thống, trích đoạn Nghi lễ cúng tổ tiên – chúc Tết ông bà, cha mẹ trong ngày đầu năm mới, nghề thủ công truyền thống, tạo hình trang phục, lễ hội ẩm thực, trình diễn kỹ thuật chế tác nhạc cụ truyền thống... 

Đồng bào Cống nơi biên giới Nậm Kè vui Tết Hoa mào gà

Đồng bào Cống nơi biên giới Nậm Kè vui Tết Hoa mào gà

Khi sắc hoa mào gà rực đỏ trên những sườn đồi, cũng là lúc đồng bào Cống ở xã Nậm Kè, tỉnh Điện Biên nô nức đón Tết Hoa mào gà, hay còn gọi là Tết Hoa. Đây là dịp để bà con sum họp, vui Tết truyền thống, đồng thời gìn giữ và lan tỏa những giá trị văn hóa đặc sắc, thể hiện đời sống tinh thần phong phú, tình đoàn kết của cộng đồng người Cống nơi cực Tây Tổ quốc.

Lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế

Lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế

Với vị thế là vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, những năm qua, Phú Thọ đã chủ động, sáng tạo trong ngoại giao văn hóa và đạt được nhiều kết quả quan trọng; góp phần lan tỏa giá trị văn hóa Đất Tổ, thúc đẩy hợp tác quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.