Với mục tiêu gìn giữ, trao truyền và quảng bá những giá trị văn hóa của người Dao, thông qua nghệ thuật trình diễn kết hợp công nghệ hiện đại như ánh sáng, sắp đặt sân khấu, 3D mapping, nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản văn hóa…, vở diễn thực cảnh “Thiêng”, diễn ra tại Sân Quần (Sa Pa, Lào Cai), đã trở thành sự kiện đặc biệt, không chỉ bởi quy mô và công nghệ trình diễn hiện đại, mà bởi thông điệp sâu sắc về văn hóa, niềm tin và bản sắc dân tộc.
Bản giao hưởng đất, trời và con người
Lấy cảm hứng từ kho tàng văn hóa Dao đỏ ở Sa Pa, “Thiêng” là tác phẩm ca - múa - nhạc - trình diễn thị giác quy mô lớn, được xây dựng trên nền tảng nghi lễ truyền thống, diễn xướng dân gian và vũ điệu bản địa. Tác phẩm khắc họa hành trình của người Dao tìm về nguồn cội, nơi tín ngưỡng và thiên nhiên hòa làm một, nơi con người đối thoại với đất trời bằng ngôn ngữ của niềm tin. Đây là dự án nghệ thuật do Công ty Hexogon Việt Nam, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, Hiệp hội du lịch tỉnh Lào Cai, UBND phường Sa Pa, cùng với ê kíp nghệ sĩ và khoảng 80 đồng bào dân tộc Dao ở Sa Pa thực hiện.
Giữa lòng Sân Quần (Sa Pa), vở diễn“Thiêng” mở ra như một bản giao hưởng của đất, trời và con người. Trong tiếng trống, tiếng tù và, tiếng nước hòa cùng lời Páo dung trầm mặc, tiếng thiêng của những bài văn cúng... tạo nên một không gian đầy linh cảm, nơi con người đối thoại với đất trời. Trên sân khấu, các nghệ nhân và người dân Dao đỏ cùng dàn diễn viên chuyên nghiệp, quan những làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ, cho đến trang phục, nghi lễ… đã tái hiện lại vẻ đẹp của thiên nhiên gắn với đời sống văn hóa của đồng bào người Dao: Từ màu nâu đất ấm trong cảnh “Tìm đất, lập bản”, màu lam phảng phất trong “Cầu mưa”, sắc lửa rực hồng trong “Bếp thiêng” và thứ ánh sáng trắng thanh khiết khi 12 ngọn đèn cấp sắc bừng lên giữa màn sương Sa Pa. Những bức tranh thờ, những mảng đỏ biểu tượng, những đường nét bản địa được tôn lên bằng ánh sáng… tất cả như hơi thở của núi rừng hóa thành nghệ thuật, dẫn dắt người xem qua một hành trình tâm linh: Đất - Nước - Lửa - Tình yêu -Thiêng và Kết - hành trình con người Dao tìm lại niềm tin vào Đạo tổ và linh khí của đất trời.
Một trong những thành công lớn nhất của “Thiêng” là cách làm nghệ thuật dựa trên tinh thần “đồng sáng tạo với cộng đồng”. Với hơn 80% người tham gia là nghệ nhân và đồng bào Dao đỏ tại Sa Pa, mỗi bước múa, mỗi lời ca, mỗi nghi lễ đều xuất phát từ chính đời sống văn hóa của họ.
Ông Hà Văn Thắng, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai, tác giả kịch bản chia sẻ, ông không tái hiện một cách đơn thuần, mà để chính người Dao kể lại câu chuyện của họ. Khi họ hát Páo dung, thực hiện nghi lễ cấp sắc hay thực hành những nét văn hóa của mình trên sân khấu, họ đang sống trong văn hóa, chứ không “diễn” nó…
Với đạo diễn Đặng Xuân Trường, “Thiêng” không chỉ là một show diễn, đó là một hành trình để sống cùng văn hóa Dao, nơi ánh sáng, âm thanh và con người cùng cất lên tiếng nói thiêng liêng về cội nguồn, về những giá trị được gìn giữ qua bao thế hệ. Đạo diễn Đặng Xuân Trường chia sẻ, “Thiêng” là cuộc đối thoại giữa ánh sáng và niềm tin, mọi yếu tố ánh sáng, khói, nhạc, chuyển động… đều được thiết kế như những biểu tượng, đối thoại với khán giả. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ sân khấu đương đại và nghi lễ truyền thống tạo ra cho “Thiêng” một không gian trình diễn hiếm có: nơi công nghệ 3D mapping, hiệu ứng khói, laser, ánh sáng kết hợp hài hòa với vũ điệu, sắc phục, lời ca và tâm thức người Dao đỏ.
Trên nền không gian đặc biệt của Sân Quần - nơi giao hòa giữa kiến trúc nhà thờ đá và núi rừng Sa Pa - đạo diễn Đặng Xuân Trường đã biến sân khấu thành bức họa ánh sáng khổng lồ, khi ánh sáng xoáy tròn trong làn khói trắng, hình tượng rồng hiện ra, phun nước làm mưa; khi đàn lễ bùng cháy giữa sân khấu; khi tiếng tù và vọng lên từ sâu trong đêm… cả không gian như chìm trong một nghi lễ thiêng, như đang dự lễ cấp sắc của chính cộng đồng. “Thiêng” vì thế trở thành minh chứng sinh động cho sự giao thoa hài hòa giữa tâm linh và công nghệ, di sản và sáng tạo, quá khứ và hiện tại.
Từ nghệ thuật đến du lịch bền vững
Với người dân Sa Pa và du khách, câu chuyện về một show nghệ thuật sinh ra từ chính lòng dân, kể về chính họ… đã để lại những ấn tượng sâu sắc. Họa sĩ Thu Hà, đến từ Hà Nội chia sẻ, chị đã đến Sa Pa nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên một chương trình khiến chị xúc động đến vậy. Cảm giác như đang được dự một nghi lễ thật, rất linh thiêng. Điều đó khiến chị muốn tìm hiểu nhiều hơn về văn hóa của người Dao.
“Thiêng” cũng trở thành một bài học quý về cội nguồn, khơi dậy niềm tự hào dân tộc với thế hệ trẻ người Dao ở Sa Pa. Chảo Láo Tả, một thanh niên Dao đỏ đã được cấp sắc 3 đèn chia sẻ, với anh, “Thiêng” không chỉ là một chương trình nghệ thuật, mà là một bài học để trở về với cội nguồn. Những nghi lễ như tìm đất, cầu mưa, nhóm lửa, cấp sắc... đều là các phần thiêng trong đời sống, khi được khâu nối lại bằng ngôn ngữ sân khấu, ánh sáng, âm nhạc, tất cả trở nên vừa gần gũi, vừa choáng ngợp.
“Là người dân tộc Dao, nhiều năm nay, tôi thấy văn hóa Dao dần bị mai một, người trẻ chưa hiểu hết cái hay, cái đẹp nên dễ bỏ qua hoặc coi là phiền toái. Khi xem lại, tôi thực sự xúc động, không ngờ những điều thân thuộc ấy lại có thể đẹp đến thế. “Thiêng” đã giúp chúng tôi nhìn lại và tự hào hơn với di sản của mình”, Chảo Láo Tả nói.
Với Mẩy Vy, đảm nhiệm vai trò dẫn chuyện trong vở diễn, “Thiêng” là một trải nghiệm không thể quên, bởi ở đó, văn hóa của đồng bào Dao không chỉ được tái hiện, còn được nâng lên, lung linh và sống động. Đó cũng là khoảnh khắc giúp Mẩy Vy hiểu sâu hơn về nguồn cội và thấy tự hào vì được là người Dao…
Không chỉ là một chương trình sân khấu, “Thiêng” là một sản phẩm văn hóa du lịch, kết tinh giữa sáng tạo của nghệ sĩ và niềm tự hào của cộng đồng, mở ra hướng đi mới trong phát triển du lịch văn hóa Sa Pa, đó là biến di sản thành sản phẩm văn hóa - du lịch có giá trị, tạo sinh kế từ vốn văn hóa của chính đồng bào. Vở diễn thực cảnh “Thiêng” đã mang đến cho mảnh đất Sa Pa thêm một sản phẩm nghệ thuật biểu diễn phục vụ du lịch, được kiến tạo từ chính chất liệu của đời sống bản địa. Nhiều du khách nước ngoài sau khi xem show diễn đã chia sẻ, đêm diễn xứng đáng để trải nghiệm.
Ngay trong đêm công diễn đầu tiên, ê kíp thực hiện đã nhận được những lời cảm ơn thành tâm của đồng bào người Dao và du khách trong và ngoài nước. Ông Ngô Xuân Minh, Giám đốc Công ty Hexogon Việt Nam, đơn vị tổ chức thực hiện chương trình xúc động chia sẻ, khi bà con người Dao nói cảm ơn vì đã cho họ một đêm diễn mãn nhãn, khi du khách chia sẻ về cảm xúc họ có được, ông thấy mọi vất vả suốt cả năm trời, những đêm không ngủ, những ngày mưa sương dày đặc… đều xứng đáng.
Thành công của “Thiêng” cho thấy sức mạnh của mô hình nghệ thuật cộng đồng: nghệ nhân là chủ thể, nghệ sĩ là người đồng hành, công nghệ là cánh tay nối dài của văn hóa. Đây cũng là cách để văn hóa bản địa không chỉ được giữ gìn, mà còn trở thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam đến bạn bè quốc tế.
Lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lào Cai đánh giá cao dự án nghệ thuật này, bởi lẽ, với việc đưa các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào vào trong show diễn, từ các làn điệu dân ca, dân nhạc, dân vũ, cho đến trang phục, nghi lễ… chương trình vừa góp phần bảo tồn, tái hiện những cái giá trị văn hóa truyền thống, vừa tạo thêm sinh kế cho đồng bào. Với tư cách là chủ thể văn hóa tham gia vào chương trình, đồng bào dân tộc ở địa phương sẽ có thêm nguồn thu nhập để cải thiện đời sống, địa phương có thêm sản phẩm du lịch để giới thiệu với du khách…/.
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn