Người Mông ở vùng cao Trạm Tấu (Yên Bái) hiện còn giữ được nhiều nét văn hóa đặc sắc của đồng bào. Cây khèn với họ không chỉ là nhạc cụ, mà còn là tiếng nói của núi rừng, tiếng lòng của người Mông và sợi dây kết nối giữa quá khứ, hiện tại với tương lai. Để tiếng khèn trường tồn với thời gian, các thế hệ người Mông huyện Trạm Tấu luôn miệt mài gìn giữ nét văn hóa đặc sắc này.

Nghệ nhân dân gian Hờ A Thào ở xã Bản Công, huyện Trạm Tấu mở lớp dạy khèn Mông cho hàng chục thanh niên trong huyện Trạm Tấu.
Góp phần gìn giữ văn hóa trường tồn
Tại xã Bản Công, huyện Trạm Tấu vẫn có những người bền bỉ lặng lẽ, âm thầm vun đắp cho tiếng khèn của người Mông mãi trường tồn. Họ là những nghệ nhân, người “giữ hồn” khèn Mông. Bằng tình yêu văn hóa cháy bỏng và trái tim đầy nhiệt huyết, họ nỗ lực truyền lửa cho thế hệ trẻ, để tiếng khèn của người Mông không bao giờ lụi tàn theo dòng chảy thời gian.
Trong không gian văn hóa của người Mông, tiếng khèn mang ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt trong màn độc tấu, tiếng khèn như trở thành tiếng lòng của người đàn ông. Bởi vậy, từ thuở ấu thơ, những cậu bé người Mông ở Trạm Tấu đã được những người lớn tuổi, những bậc thầy khèn trong gia đình, dòng tộc trao truyền bí quyết diễn tấu khèn. Thế nhưng, để tiếng khèn thực sự chạm đến trái tim cộng đồng, được cộng đồng trân trọng lại là một hành trình đòi hỏi sự khổ luyện và đam mê không ngừng.
Ông Hờ A Thào, Nghệ nhân dân gian ở xã Bản Công, huyện Trạm Tấu là người có tình yêu và niềm đam mê với khèn. Tiếng khèn đã thấm sâu vào máu thịt ông ngay từ khi còn là một cậu bé. Giờ đây, dù vui hay buồn, chiếc khèn luôn là người bạn tri kỷ bên cạnh ông. Mỗi khi tiếng khèn của ông cất lên, trong âm thanh ấy, người nghe có thể cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Trạm Tấu, sự giản dị mà đôn hậu trong cuộc sống của đồng bào nơi đây.
Người dân nơi đây ví tiếng khèn của ông Thào như một bức tranh, một câu chuyện kể về đất và người Trạm Tấu. Bởi tiếng khèn ấy quá đỗi ngọt ngào và lay động, nhiều gia đình người Mông, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, vẫn quyết tâm gửi gắm con em mình cho nghệ nhân Hờ A Thào truyền dạy. Không chỉ trau dồi kỹ năng cho bản thân, những năm gần đây, ông Thào còn mở lớp dạy, tận tâm chỉ bảo cho con em đồng bào Mông trên khắp vùng cao Trạm Tấu.

Là thầy giáo dạy khèn Mông nhiều năm nay, theo ông Thào, học thổi khèn Mông không khó, nhưng để thấu hiểu được hồn cốt của tiếng khèn, diễn tấu thành thạo ở nhiều thể loại khác nhau thì là một thử thách lớn. Đầu năm 2025, ông vinh dự khi được Nhà nước, tỉnh Yên Bái phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, đây là động lực để ông nỗ lực hơn nữa giúp thế hệ sau có thêm nhiều người giỏi khèn Mông, góp phần gìn giữ văn hóa người Mông được trường tồn mãi mãi.
Anh Thào A Chang, ở xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu tâm sự, trước đây, mỗi khi có lễ hội, anh chỉ dám đứng từ xa ngắm nhìn các bậc cha chú thổi và múa khèn. Giờ đây, được thầy Hờ A Thào tận tình truyền dạy, anh đã học được nhiều điệu, nhiều bài và tự tin thể hiện trong những ngày lễ quan trọng của cộng đồng. Anh rất vui và cảm ơn thầy Thào đã giúp anh biết thổi khèn, góp phần không làm mai một bản sắc của dân tộc.
Chung niềm đam mê với anh Chang, anh Hờ A Tểnh, ở xã Bản Công, huyện Trạm Tấu gắn bó với lớp học của thầy Hờ A Thào gần hai năm. Anh Tểnh và anh Chang là hai trong số hơn 30 học trò mà thầy Thào dìu dắt từ năm 2022. Đến nay, họ đều là những "cánh chim" đầy triển vọng của tiếng khèn Mông Trạm Tấu.
Anh Hờ A Tểnh chia sẻ, nhờ sự động viên, hướng dẫn tận tình của thầy Thào, từ việc làm quen với từng nốt nhạc, đến luyện tập các bài phức tạp, giờ anh có thể làm chủ được cây khèn và tự tin thể hiện nhiều bài khác nhau. Anh sẽ cố gắng học khèn tốt hơn nữa để sau này có thể truyền lại ngọn lửa đam mê này cho con cháu mình.
Khơi dậy niềm tự hào về bản sắc dân tộc

Lớp học khèn Mông của những người "giữ lửa" tiếng khèn trên non cao Trạm Tấu.
Khèn Mông thường được biểu diễn dưới nhiều hình thức độc tấu da diết, hòa tấu nhịp nhàng hay tập thể hùng tráng. Cái khó không chỉ nằm ở việc, người thổi phải thổi lên những giai điệu, mà còn ở sự kết hợp uyển chuyển giữa tiếng khèn và những điệu múa độc đáo, đòi hỏi kỹ thuật cao, mang đậm tính nghệ thuật. Những động tác múa khèn như nhảy đưa chân mạnh mẽ, quay tại chỗ điêu luyện, lăn nghiêng táo bạo đều tạo nên một màn trình diễn vừa nghe say đắm lòng người, vừa mãn nhãn người xem.
Tuy nhiên, hiện nay trong dòng chảy của cuộc sống hiện đại, số lượng người trẻ đam mê và theo học khèn Mông ngày càng ít, nguy cơ mai một di sản văn hóa quý giá này là điều không thể tránh khỏi. Với mong muốn bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị của cây khèn truyền thống, ông Giàng A Su, nguyên Bí thư Huyện ủy Trạm Tấu luôn cố gắng hết mình để dạy cho thế hệ trẻ từng nốt nhạc, kỹ thuật lấy hơi.
Ông Giàng A Su cho biết, khi ông 15 tuổi đã rất đam mê khèn Mông, đến nay dù đã cao tuổi nhưng niềm đam mê khèn Mông trong trái tim ông chưa bao giờ tắt. Theo ông Su để thổi được khèn thành một bài hoàn chỉnh, có hồn, có điệu, đòi hỏi người học phải có sự kiên trì. Vì vậy, không chỉ cố gắng truyền dậy kỹ năng cho các bạn trẻ, ông còn khơi gợi niềm yêu thích, đam mê trong mỗi người. Có như vậy các cháu mới tiến bộ nhanh chóng, ông Su chia sẻ.
Theo ông Su, độ tuổi phù hợp để học khèn Mông tốt nhất là khoảng 10 tuổi. Nếu cố gắng học chăm chỉ, người học sẽ mất khoảng 2 năm là có thể thổi được một số bài khèn cơ bản. Khi giỏi rồi gặp bài khèn khó đến mấy chỉ cần nghe qua là cũng có thể diễn tấu được.

Nhiều thanh niên người Mông thông qua lớp học thấy yêu thích tiếng khèn của đồng bào.
Để giữ gìn khèn Mông, việc chế tác cũng rất quan trọng. Gắn bó gần 35 năm với nghề chế tác khèn, ông Cứ A Sang, ở xã Trạm Tấu, huyện Trạm Tấu là một nghệ nhân chế tác khèn tài ba.
Ông Cứ A Sang bộc bạch, với người Mông, cây khèn giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh nên rất cần được các cấp quan tâm, mở lớp để truyền dạy làm khèn cho các thanh niên trẻ. Để nghề làm khèn không bị mất đi, ông mong muốn các gia đình cho con, cháu học nghề, đưa con cháu đến ông dạy làm khèn.
Khèn Mông không chỉ là một nhạc cụ, mà còn là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Mông; thể hiện rõ nét những giá trị tâm linh, tín ngưỡng và truyền thống sâu sắc. Những lớp học của những người “giữ hồn” khèn Mông đã góp phần lan tỏa tình yêu văn hóa, khơi dậy niềm tự hào về bản sắc dân tộc nơi non cao Trạm Tấu./.
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn
