Từ ý tưởng nhen nhóm trong đại dịch COVID-19, với bản lĩnh, sự nhạy bén và tinh thần dám dấn thân, chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã gây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục ha, mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.

Chị Châu Thị Nương bên gian hàng các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN
Khởi nghiệp từ vườn rau nhỏ
Năm 2019, khi dịch COVID-19 bất ngờ ập đến khiến cuộc sống gia đình chị Nương lao đao. Để cải thiện bữa ăn, chị cùng người thân trồng rau, trồng nấm tại vườn nhà. Nhờ sử dụng những loại nấm quý như nấm mối đen, linh chi, đông trùng hạ thảo trong các bữa ăn hàng ngày, sức khỏe cả gia đình chị thay đổi tích cực.
“Tôi nhận ra nấm không chỉ ngon mà còn tốt cho sức khỏe. Tôi tin rằng nhiều gia đình khác cũng đang cần những thực phẩm xanh, an toàn. Từ một niềm tin giản dị, tôi quyết tâm khởi nghiệp, nhưng phải làm bài bản, chắc chắn” - chị Nương chia sẻ.
Không bằng cấp chuyên ngành, không xuất phát điểm thuận lợi, chị ngày đêm kiên trì tìm đọc tài liệu, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn tại trường Đại học An Giang. Chị cũng dồn hết tâm sức vào nghiên cứu trồng nấm mối đen, loại nấm đặc hữu, cực khó nhân giống.
Sau gần một năm mày mò, thử nghiệm, chị cùng chồng mạnh dạn đầu tư trang trại trồng nấm công nghệ cao ở xã Cô Tô và phường Thới Sơn, tổng diện tích hơn 5 ha. Từ đây, “Nương Farm” ra đời, không chỉ là nơi trồng nấm, mà là một hệ sinh thái tuần hoàn khép kín.
Vòng tuần hoàn từ rơm rạ

Nấm linh chi tai to đỏ au, căng bóng được trồng tại “Nương Farm”. Ảnh: TTXVN phát
Khác với nhiều mô hình trồng nấm thông thường, giá thể trồng nấm tại “Nương Farm” được tận dụng hoàn toàn từ phụ phẩm nông nghiệp địa phương như rơm, rạ, cám bắp, cám gạo… Chúng được phối trộn, cấy meo để nuôi trồng thành công các loại nấm quý: nấm mối đen, nấm bào ngư, linh chi tai to, đông trùng hạ thảo.
Sau khi nấm được thu hoạch, phần giá thể tiếp tục được chị Nương sử dụng để nuôi trùn quế, rồi lấy phân hữu cơ bón cho hơn 10 ha lúa, bắp và rau màu hữu cơ. Cây lúa, bắp sau khi thu hoạch quay trở lại làm phôi nấm mới. Một vòng tuần hoàn khép kín không rác thải, không ô nhiễm môi trường được chị Nương thiết lập.
Theo chị Nương, mỗi khâu sản xuất đều tạo ra giá trị, không bỏ phí bất cứ thứ gì. Vòng tuần hoàn này giúp tôi tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm môi trường và tạo ra nấm sạch, chất lượng cao. Hiện mỗi tháng, “Nương Farm” cung cấp trên 1 tấn nấm mối đen tươi, giá ổn định 200.000 đồng/kg, lợi nhuận trung bình 20%. Các dòng sản phẩm cao cấp như: nấm linh chi, đông trùng hạ thảo khô mang lại doanh thu khoảng 2 tấn/năm.
Không dừng lại ở nguyên liệu thô, chị đầu tư hơn 1 tỷ đồng vào hệ thống sấy thăng hoa, sấy giòn, sấy nhiệt, giữ nguyên dược chất. Từ đó ra đời những sản phẩm trà linh chi hòa tan, snack nấm, thực phẩm chăm sóc sức khỏe được thị trường ưa chuộng.
Để giảm chi phí và thân thiện môi trường, chị lắp đặt pin mặt trời, vừa tạo bóng mát cho khu trồng nấm, vừa tiết kiệm 30% chi phí điện, đồng thời giúp năng suất nấm tăng thêm 40%. Nhờ những bước đi táo bạo, Hợp tác xã nông nghiệp Tà Đảnh do chị làm giám đốc đạt doanh thu trên 15 tỷ đồng/năm, lợi nhuận hơn 7 tỷ đồng/năm.
Gieo niềm tin cho phụ nữ Khmer

Công nhân tại “Nương Farm” tỉ mỉ cấy meo nấm. Ảnh: TTXVN phát
Nếu chỉ dừng ở lợi nhuận, “Nương Farm” đã là một mô hình thành công. Nhưng với chị Nương, giá trị xã hội mới là điều quan trọng. Hiện trang trại tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động, 80% trong số đó là phụ nữ Khmer thường gặp khó khăn khi tìm việc tại quê nhà.
“Trước đây, nhiều chị em phụ nữ Khmer phải rời quê lên TP Hồ Chí Minh hay Đồng Nai làm công nhân, xa chồng con. Giờ họ có thể làm việc gần nhà, thu nhập ổn định từ 4 - 9 triệu đồng/tháng”, chị Nương cho biết. Vào mùa cao điểm, số lao động tăng lên 50 người. Nhiều chị em sau thời gian gắn bó còn được hỗ trợ học nghề, tự mở cơ sở trồng nấm nhỏ để nuôi sống gia đình.
Thành công của “Nương Farm” đã đưa chị Nương trở thành gương mặt tiêu biểu cho tinh thần đổi mới sáng tạo của phụ nữ dân tộc thiểu số. Năm 2022, chị đạt giải Nhất cuộc thi “Tìm kiếm sáng kiến tăng quyền năng kinh tế phụ nữ trong chuỗi lúa gạo” (dự án Graisea2). Năm 2023, chị Nương lọt Top 10 doanh nghiệp xuất sắc nhất tại Cuộc thi Sáng kiến ESG Việt Nam, giải thưởng tôn vinh mô hình phát triển bền vững, thân thiện môi trường. Nhiều năm liền, chị được công nhận là “Nông dân giỏi” các cấp, đồng thời là thành viên tích cực trong mạng lưới nông dân sáng tạo tỉnh An Giang. Đặc biệt, năm 2025, chị Nương được Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là “Nông dân Việt Nam xuất sắc”.

Các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN
Dù đã gặt hái nhiều thành tựu, chị vẫn khiêm tốn nói: Tôi mới chỉ bắt đầu. Sắp tới, tôi muốn mở rộng vùng nguyên liệu, xây dựng trung tâm ươm phôi giống và hình thành khu trưng bày sản phẩm OCOP. Chị Nương chia sẻ: "Khởi nghiệp không hề dễ, nhất là đối với phụ nữ nông thôn. Nhưng nếu có tâm, có tầm nhìn và không ngại học, thì sẽ thành công. Tôi mong ngày càng có nhiều chị em mạnh dạn thay đổi, làm giàu theo con đường xanh, sạch, bền vững".
Câu chuyện của chị Châu Thị Nương không chỉ là hành trình khởi nghiệp, mà còn là hành trình gieo hy vọng, niềm tin và phát triển bền vững trên mảnh đất Bảy Núi. Đó là minh chứng sống động cho tiềm năng vươn lên mạnh mẽ của người phụ nữ khi được tiếp cận tri thức và có cơ hội thể hiện bản thân./.
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
