Mở hướng mới phát triển nông nghiệp xanh ở lòng Bảy Núi

Từ ý tưởng nhen nhóm trong đại dịch COVID-19, với bản lĩnh, sự nhạy bén và tinh thần dám dấn thân, chị Châu Thị Nương (48 tuổi, xã Cô Tô, tỉnh An Giang) đã gây dựng thành công trang trại trồng nấm dược liệu công nghệ cao tuần hoàn khép kín với quy mô hàng chục ha, mang tên “Nương Farm”. Thành công của chị Nương đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững giữa lòng Bảy Núi.

Chị Châu Thị Nương bên gian hàng các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN

Chị Châu Thị Nương bên gian hàng các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN

Khởi nghiệp từ vườn rau nhỏ

Năm 2019, khi dịch COVID-19 bất ngờ ập đến khiến cuộc sống gia đình chị Nương lao đao. Để cải thiện bữa ăn, chị cùng người thân trồng rau, trồng nấm tại vườn nhà. Nhờ sử dụng những loại nấm quý như nấm mối đen, linh chi, đông trùng hạ thảo trong các bữa ăn hàng ngày, sức khỏe cả gia đình chị thay đổi tích cực.

“Tôi nhận ra nấm không chỉ ngon mà còn tốt cho sức khỏe. Tôi tin rằng nhiều gia đình khác cũng đang cần những thực phẩm xanh, an toàn. Từ một niềm tin giản dị, tôi quyết tâm khởi nghiệp, nhưng phải làm bài bản, chắc chắn” - chị Nương chia sẻ.

Không bằng cấp chuyên ngành, không xuất phát điểm thuận lợi, chị ngày đêm kiên trì tìm đọc tài liệu, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn tại trường Đại học An Giang. Chị cũng dồn hết tâm sức vào nghiên cứu trồng nấm mối đen, loại nấm đặc hữu, cực khó nhân giống.

Sau gần một năm mày mò, thử nghiệm, chị cùng chồng mạnh dạn đầu tư trang trại trồng nấm công nghệ cao ở xã Cô Tô và phường Thới Sơn, tổng diện tích hơn 5 ha. Từ đây, “Nương Farm” ra đời, không chỉ là nơi trồng nấm, mà là một hệ sinh thái tuần hoàn khép kín.

Vòng tuần hoàn từ rơm rạ

Nấm linh chi tai to đỏ au, căng bóng được trồng tại “Nương Farm”. Ảnh: TTXVN phát

Nấm linh chi tai to đỏ au, căng bóng được trồng tại “Nương Farm”. Ảnh: TTXVN phát

Khác với nhiều mô hình trồng nấm thông thường, giá thể trồng nấm tại “Nương Farm” được tận dụng hoàn toàn từ phụ phẩm nông nghiệp địa phương như rơm, rạ, cám bắp, cám gạo… Chúng được phối trộn, cấy meo để nuôi trồng thành công các loại nấm quý: nấm mối đen, nấm bào ngư, linh chi tai to, đông trùng hạ thảo.

Sau khi nấm được thu hoạch, phần giá thể tiếp tục được chị Nương sử dụng để nuôi trùn quế, rồi lấy phân hữu cơ bón cho hơn 10 ha lúa, bắp và rau màu hữu cơ. Cây lúa, bắp sau khi thu hoạch quay trở lại làm phôi nấm mới. Một vòng tuần hoàn khép kín không rác thải, không ô nhiễm môi trường được chị Nương thiết lập.

Theo chị Nương, mỗi khâu sản xuất đều tạo ra giá trị, không bỏ phí bất cứ thứ gì. Vòng tuần hoàn này giúp tôi tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm môi trường và tạo ra nấm sạch, chất lượng cao. Hiện mỗi tháng, “Nương Farm” cung cấp trên 1 tấn nấm mối đen tươi, giá ổn định 200.000 đồng/kg, lợi nhuận trung bình 20%. Các dòng sản phẩm cao cấp như: nấm linh chi, đông trùng hạ thảo khô mang lại doanh thu khoảng 2 tấn/năm.

Không dừng lại ở nguyên liệu thô, chị đầu tư hơn 1 tỷ đồng vào hệ thống sấy thăng hoa, sấy giòn, sấy nhiệt, giữ nguyên dược chất. Từ đó ra đời những sản phẩm trà linh chi hòa tan, snack nấm, thực phẩm chăm sóc sức khỏe được thị trường ưa chuộng.

Để giảm chi phí và thân thiện môi trường, chị lắp đặt pin mặt trời, vừa tạo bóng mát cho khu trồng nấm, vừa tiết kiệm 30% chi phí điện, đồng thời giúp năng suất nấm tăng thêm 40%. Nhờ những bước đi táo bạo, Hợp tác xã nông nghiệp Tà Đảnh do chị làm giám đốc đạt doanh thu trên 15 tỷ đồng/năm, lợi nhuận hơn 7 tỷ đồng/năm.

Gieo niềm tin cho phụ nữ Khmer

Công nhân tại “Nương Farm” tỉ mỉ cấy meo nấm. Ảnh: TTXVN phát

Công nhân tại “Nương Farm” tỉ mỉ cấy meo nấm. Ảnh: TTXVN phát

Nếu chỉ dừng ở lợi nhuận, “Nương Farm” đã là một mô hình thành công. Nhưng với chị Nương, giá trị xã hội mới là điều quan trọng. Hiện trang trại tạo việc làm ổn định cho hơn 30 lao động, 80% trong số đó là phụ nữ Khmer thường gặp khó khăn khi tìm việc tại quê nhà.

“Trước đây, nhiều chị em phụ nữ Khmer phải rời quê lên TP Hồ Chí Minh hay Đồng Nai làm công nhân, xa chồng con. Giờ họ có thể làm việc gần nhà, thu nhập ổn định từ 4 - 9 triệu đồng/tháng”, chị Nương cho biết. Vào mùa cao điểm, số lao động tăng lên 50 người. Nhiều chị em sau thời gian gắn bó còn được hỗ trợ học nghề, tự mở cơ sở trồng nấm nhỏ để nuôi sống gia đình.

Thành công của “Nương Farm” đã đưa chị Nương trở thành gương mặt tiêu biểu cho tinh thần đổi mới sáng tạo của phụ nữ dân tộc thiểu số. Năm 2022, chị đạt giải Nhất cuộc thi “Tìm kiếm sáng kiến tăng quyền năng kinh tế phụ nữ trong chuỗi lúa gạo” (dự án Graisea2). Năm 2023, chị Nương lọt Top 10 doanh nghiệp xuất sắc nhất tại Cuộc thi Sáng kiến ESG Việt Nam, giải thưởng tôn vinh mô hình phát triển bền vững, thân thiện môi trường. Nhiều năm liền, chị được công nhận là “Nông dân giỏi” các cấp, đồng thời là thành viên tích cực trong mạng lưới nông dân sáng tạo tỉnh An Giang. Đặc biệt, năm 2025, chị Nương được Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam bình chọn là “Nông dân Việt Nam xuất sắc”.

Các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN

Các sản phẩm chế biến từ nấm được giới thiệu tại gian hàng “Nương Farm”. Ảnh: Thanh Sang/TTXVN

Dù đã gặt hái nhiều thành tựu, chị vẫn khiêm tốn nói: Tôi mới chỉ bắt đầu. Sắp tới, tôi muốn mở rộng vùng nguyên liệu, xây dựng trung tâm ươm phôi giống và hình thành khu trưng bày sản phẩm OCOP. Chị Nương chia sẻ: "Khởi nghiệp không hề dễ, nhất là đối với phụ nữ nông thôn. Nhưng nếu có tâm, có tầm nhìn và không ngại học, thì sẽ thành công. Tôi mong ngày càng có nhiều chị em mạnh dạn thay đổi, làm giàu theo con đường xanh, sạch, bền vững".

Câu chuyện của chị Châu Thị Nương không chỉ là hành trình khởi nghiệp, mà còn là hành trình gieo hy vọng, niềm tin và phát triển bền vững trên mảnh đất Bảy Núi. Đó là minh chứng sống động cho tiềm năng vươn lên mạnh mẽ của người phụ nữ khi được tiếp cận tri thức và có cơ hội thể hiện bản thân./.

Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Khmer

Có thể bạn quan tâm

Thanh niên nông thôn bền bỉ làm giàu từ quê hương

Thanh niên nông thôn bền bỉ làm giàu từ quê hương

Từ những mô hình sản xuất hiệu quả tại cơ sở, nhiều thanh niên nông thôn đã khẳng định bản lĩnh, tinh thần dám nghĩ, dám làm và khát vọng làm giàu chính đáng. Với họ, Giải thưởng Lương Định Của không chỉ là sự ghi nhận xứng đáng cho nỗ lực cá nhân, mà còn là động lực để tiếp tục gắn bó với nông nghiệp, đổi mới tư duy, lan tỏa những cách làm hay, góp phần phát triển kinh tế và xây dựng quê hương.

Chàng thanh niên dân tộc Dao làm giàu từ cây chanh rừng

Chàng thanh niên dân tộc Dao làm giàu từ cây chanh rừng

Anh Hoàng Phúc Thắng (người dân tộc Dao ở thôn Bó Pằm, xã Mẫu Sơn, tỉnh Lạng Sơn) đã đi tiên phong trong phát triển kinh tế, thành lập hợp tác xã để liên kết sản xuất, xây dựng sản phẩm OCOP nhằm nâng cao giá trị nông sản địa phương... Anh Thắng trở thành một trong những điển hình nông dân sản xuất giỏi tiêu biểu của tỉnh Lạng Sơn dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI.

Người thầy thuốc bền bỉ cống hiến nơi địa đầu Tổ quốc

Người thầy thuốc bền bỉ cống hiến nơi địa đầu Tổ quốc

Giữa guồng quay hối hả của đời sống y tế hiện đại, nơi mỗi quyết định chuyên môn đều gắn với sinh mệnh con người, có những cán bộ quản lý bền bỉ đứng ở tuyến sau, âm thầm giữ cho “cỗ máy” bệnh viện vận hành thông suốt, an toàn và nhân văn. Bác sĩ chuyên khoa II Đoàn Lương Anh, Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang là một người như thế.

Thi đua yêu nước: Người Chăm phủ xanh miền cát trắng bay

Thi đua yêu nước: Người Chăm phủ xanh miền cát trắng bay

Giữa trưa ở xã Phước Dinh, tỉnh Khánh Hòa, nắng như đổ lửa, gió từ biển thổi hun hút qua những triền cát trắng khô khát. Nhưng ở làng Tuấn Tú, những vườn măng tây xanh mướt vẫn vươn lên mạnh mẽ. Ở trung tâm gam màu đối lập ấy là ông Hùng Ky (sinh năm 1969), người Chăm hiền lành, dáng người rắn rỏi được bà con trìu mến gọi là “người phủ xanh cát trắng bay”.

'Thầy giáo số' quân hàm xanh

'Thầy giáo số' quân hàm xanh

Những cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tại Lai Châu giúp người dân tiếp cận các kỹ năng số cơ bản còn được gọi trìu mến là “Thầy giáo số” quân hàm xanh. Những "giáo viên" này đang lặng lẽ góp phần rút ngắn khoảng cách số, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc nơi biên cương Tổ quốc.

Dẫn dắt đồng bào dân tộc thiểu số cùng vượt khó làm giàu

Dẫn dắt đồng bào dân tộc thiểu số cùng vượt khó làm giàu

Từ mảnh đất Cao Bằng, ông Lâm Văn Giàng (sinh năm 1968, người dân tộc Tày) theo gia đình vào lập nghiệp trên vùng đất đỏ Miền Đông tại ấp Chà Lon, nay thuộc xã Minh Đức, tỉnh Đồng Nai, từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Bằng ý chí kiên cường và sự nỗ lực không ngừng, ông đã xây dựng thành công một mô hình kinh tế tổng hợp quy mô lớn, mang lại thu nhập hơn 6 tỷ đồng/năm. Ông Giàng trở thành một trong những điển hình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi tiêu biểu của cả nước.

Người Sư cả 'nặng lòng' với cộng đồng người Chăm

Người Sư cả 'nặng lòng' với cộng đồng người Chăm

Ở vùng đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tại tỉnh Lâm Đồng, Sư cả Thường Xuân Hữu (sinh năm 1947), Chủ tịch Hội đồng chức sắc Bàlamôn giáo tỉnh là người được bà con tin yêu, kính trọng. Không chỉ tận tâm dẫn dắt tín đồ trong sinh hoạt tôn giáo, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, ông còn là người có uy tín tiêu biểu, gương mẫu vận động đồng bào chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng nếp sống văn minh, góp phần bồi đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thắp lửa khởi nghiệp cho thanh niên vùng khó

Thắp lửa khởi nghiệp cho thanh niên vùng khó

Sinh năm 1995 tại xã Phú Túc (tỉnh Gia Lai), anh Kpă Séo, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ thanh niên xã Đất Bằng, là một trong những gương mặt thanh niên tiêu biểu của địa phương trong phong trào thi đua lao động sản xuất, khởi nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Hiến đất mở đường, tháo gỡ 'điểm nghẽn' hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Hiến đất mở đường, tháo gỡ 'điểm nghẽn' hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Thực hiện khâu đột phá của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã Ia Hiao lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo vận động nhân dân hiến đất mở rộng đường giao thông nông thôn, phong trào hiến đất làm đường tại xã Ia Hiao (tỉnh Gia Lai) thời gian qua đã lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.

Lớp học tình thương nơi rốn lũ

Lớp học tình thương nơi rốn lũ

Giữa xã Thiên Nhẫn - nơi được mệnh danh là “rốn lũ” của tỉnh Nghệ An có một ngôi trường không còn tiếng trống, không cờ hoa. Thế nhưng, vào mỗi dịp cuối tuần, nơi đây lại rộn ràng tiếng cười nói và tinh thần ham học của hơn 30 học trò tiểu học đặc biệt. Đó là lớp học tình thương do các cựu giáo chức tâm huyết tổ chức cho những đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn được tiếp thêm kiến thức, kỹ năng và hơi ấm yêu thương.

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Người phụ nữ Khmer giữ nét vẽ tranh trên kiếng ở xã Thuận Hòa

Nghệ nhân Triệu Thị Vui, 67 tuổi, ở xã Thuận Hòa (TP Cần Thơ), được biết đến như “người giữ lửa” của nghề vẽ tranh trên kiếng truyền thống, một nét nghệ thuật đặc trưng của văn hóa Khmer Nam Bộ. Qua từng nét vẽ tinh tế, bà tái hiện các tích Phật, mang giá trị nghệ thuật và đậm tính tâm linh, đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, góp phần gìn giữ sắc màu tranh kiếng Khmer đang ngày càng hiếm người theo loại tranh thủ công này.

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Chàng trai người Tày với thương hiệu Chè Chốt 468

Với ý chí vươn lên và khát vọng làm giàu ngay trên mảnh đất biên cương, anh Lý Đức Dân (người dân tộc Tày, thôn Nà Toong, xã Thanh Thủy, tỉnh Tuyên Quang) đã trở thành một trong 36 thanh niên tiêu biểu được Trung ương Đoàn tuyên dương năm 2025.

Tuyên dương đồng bào dân tộc thiểu số vượt khó, sáng tạo

Tuyên dương đồng bào dân tộc thiểu số vượt khó, sáng tạo

Ngày 3/12, UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức Hội nghị biểu dương các gương điển hình tiên tiến trong đồng bào dân tộc thiểu số năm 2025, nhằm tôn vinh những cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất, học tập và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.

'Cầu nối' phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa Khmer​​

'Cầu nối' phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa Khmer​​

Hơn 10 năm nay, ông Thạch Bình, 63 tuổi, người dân tộc Khmer - người có uy tín tiêu biểu tại xã Nha Bích (Đồng Nai) được người dân biết đến bởi tinh thần nhiệt huyết, tận tâm trong công việc và luôn gương mẫu trong cộng đồng. Với vai trò là người có uy tín, ông đã và đang trở thành cầu nối quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc Khmer tại địa phương.

Những nữ 'nông dân số' ở Lào Cai

Những nữ 'nông dân số' ở Lào Cai

Những năm qua, công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến đã được các cấp, ngành tỉnh Lào Cai chú trọng thực hiện, qua đó xuất hiện nhiều tấm gương trong cộng đồng đi đầu về phát triển kinh tế, xã hội.

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Người có uy tín - Điểm tựa niềm tin cộng đồng

Giữa không gian núi rừng Điện Biên, lực lượng người có uy tín từ lâu giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng. Am hiểu phong tục, tiếng nói địa phương, họ là cầu nối đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân một cách gần gũi và thuyết phục.

Giữ ngọn lửa yêu văn hóa dân tộc cho trẻ em vùng biên

Giữ ngọn lửa yêu văn hóa dân tộc cho trẻ em vùng biên

Sinh ra trong gia đình có truyền thống dạy tiếng Khmer, cô Thạch Thị Phắt Cà Đi, giáo viên Trường Tiểu học Hòa Đông (xã Phước Vinh, tỉnh Tây Ninh) nỗ lực học tập và chọn mảnh đất vùng biên tỉnh Tây Ninh gắn bó với nghề giáo.

Vượt biển ra đảo gắn bó với sự nghiệp 'trồng người'

Vượt biển ra đảo gắn bó với sự nghiệp 'trồng người'

Tỉnh An Giang hiện có 3 đặc khu gồm: Phú Quốc, Thổ Châu, Kiên Hải; nhiều đảo, xã đảo có trường học ở các cấp học. Với sự tâm huyết, nỗ lực, các thế hệ giáo viên nơi đây đã từng bước nâng cao chất lượng giáo dục địa phương. Nhiều cán bộ, giáo viên từ đất liền đã không ngại vất vả, gian khổ đến với các xã đảo, đặc khu từ giai đoạn còn nhiều khó khăn và gắn bó trong nhiều thập kỷ qua.

Vượt lũ dữ mang con chữ đến vùng biên viễn

Vượt lũ dữ mang con chữ đến vùng biên viễn

Tháng 11 lại về, mang theo không khí lắng đọng của mùa tri ân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Trên dải đất miền biên viễn xã Kim Phú (Quảng Trị), nơi những bản làng của đồng bào Rục, Chứt còn gặp muôn vàn gian khó, hành trình “gieo chữ” của thầy cô giáo dường như càng trở nên thiêng liêng và xúc động hơn bao giờ hết.

'Giữ lửa' tri thức cho học sinh dân tộc Chăm vùng biên giới Tây Nam

'Giữ lửa' tri thức cho học sinh dân tộc Chăm vùng biên giới Tây Nam

Ở miền biên giới tỉnh Tây Ninh trước đây, công tác giáo dục với học sinh dân tộc thiểu số luôn khó khăn do điều kiện kinh tế, rào cản ngôn ngữ và tập quán truyền thống. Bằng sự tận tâm, kiên trì và hiểu biết sâu sắc văn hóa dân tộc Chăm, cô giáo A My Ná - giáo viên Trường Tiểu học Tân Hưng (xã Tân Phú, tỉnh Tây Ninh) đã trở thành điểm tựa vững chắc cho nhiều thế hệ học sinh vùng biên viễn. Cô đã còn góp phần thay đổi nhận thức của phụ huynh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương.

Người thầy - chiến sĩ Công an nhân dân đặc biệt ở vùng cao biên giới

Người thầy - chiến sĩ Công an nhân dân đặc biệt ở vùng cao biên giới

“Hôm nay là buổi học cuối cùng thầy đứng lớp với các bạn. Thầy chuẩn bị về Hà Nội để nhận công tác mới”, sau câu nói ấy, cả phòng học ngưng đọng, trong khóe mắt của Thiếu tá Vũ Văn Chính những giọt nước mắt tự trào ra. Đây là nơi anh đã thổi luồng gió mới vào bộ môn tiếng Anh. Nơi anh đã gắn bó với các học sinh người Mông, người Mảng… của Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở Nậm Ban, xã Pa Tần (Lai Châu) trong 2 năm qua.

Chuyện về những nhà giáo 'cắm bản' nơi vùng cao biên giới

Chuyện về những nhà giáo 'cắm bản' nơi vùng cao biên giới

Những năm gần đây, giáo dục vùng cao tỉnh Thanh Hóa đang từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em các dân tộc thiểu số. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến của những thầy cô tận tâm, bám bản, bám lớp để “gieo chữ” nơi những bản làng biên giới xa xôi.

'Ngọn hải đăng' mang ánh sáng tri thức đến với trẻ em vùng cao

'Ngọn hải đăng' mang ánh sáng tri thức đến với trẻ em vùng cao

Vượt qua đói nghèo, những cung đường hiểm trở và khó khăn, các giáo viên cắm bản đã chọn ở lại để gieo mầm tri thức trên chính quê hương mình. Tình yêu nghề, yêu trẻ đã trở thành động lực mạnh mẽ, giúp họ kiên trì bám trụ, là những "ngọn hải đăng" mang ánh sáng tri thức đến bản làng xa xôi.

Thắp sáng tri thức nơi vùng biên

Thắp sáng tri thức nơi vùng biên

Trong hành trình thầm lặng của sự nghiệp trồng người, có những thầy cô đã dành cả thanh xuân để gắn bó với vùng cao, biên giới. Họ vượt lên gian khó, coi trường lớp là nhà, coi học trò như con, coi việc gieo chữ là sứ mệnh cả đời. Những câu chuyện giản dị nhưng xúc động ấy góp phần làm nên ý nghĩa của chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” 2025, nơi tôn vinh những con người bình dị mà phi thường.