Cùng với việc nâng cao chất lượng dạy học, hiện nay, nhiều trường học trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ngày càng chú trọng việc đưa văn hóa truyền thống đồng bào dân tộc thiểu số vào trong các chương trình giảng dạy, hoạt động ngoại khóa, ngày hội…; qua đó giúp các em nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc mình.
Thời gian qua, Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đắk Lắk đã phối hợp với nhiều trường học dân tộc nội trú trên địa bàn tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; qua đó giúp học sinh là người dân tộc thiểu số hiểu hơn về những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, đồng thời nâng cao ý thức gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa.
Mới đây, Sở đã phối hợp với Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học Cơ sở Sơn Hòa (xã Sơn Hòa) khai mạc chương trình Ngày hội văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2025. Sự kiện được tổ chức với nhiều hoạt động phong phú như: Liên hoan các đội tuyên truyền pháp luật; hội thi văn nghệ và trình diễn trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số; hội thi văn hóa cồng chiêng và múa xoang; hội thi trưng bày sản phẩm văn hóa dân tộc; hội thi ẩm thực truyền thống; thi rung chuông vàng tìm hiểu văn hóa dân tộc, kiến thức pháp luật và kỹ năng sống…
Bà Nay H'Nan, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đắk Lắk chia sẻ, các ngày hội văn hóa được tổ chức trong nhà trường giúp học sinh hiểu hơn về các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Qua đây, nhà trường xây dựng được môi trường giáo dục lành mạnh, gắn kết và giàu bản sắc. Đây cũng là dịp để trường tăng cường giáo dục truyền thống, củng cố tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc; giúp các em tự hào hơn về nguồn cội, bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Từ đầu năm học 2025 - 2026, nhiều trường học trên địa bàn thường xuyên tổ chức các lớp học chuyên đề về nghề dệt vải thổ cẩm, múa cồng chiêng của đồng bào dân tộc thiểu số cho học sinh. Đây cũng là một trong những nội dung của môn Giáo dục địa phương trong năm học được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk hướng dẫn các trường học thực hiện. Tại các buổi học, học sinh được trải nghiệm, thực hành dệt vải dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân, thưởng thức các điệu múa cồng chiêng và tìm hiểu những di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số.
Em Hà My H’Mok (Trường Tiểu học Thái Phiên, phường Ea Kao) chia sẻ, em rất thích nghề dệt thổ cẩm cũng như trang phục từ thổ cẩm. Qua các buổi học tập về nghề truyền thống do nhà trưởng tổ chức, em mong muốn lớn lên sẽ học được cách dệt thổ cẩm như những nghệ nhân của dân tộc mình.
Theo cô Trần Thị Tuyết, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Thái Phiên (phường Ea Kao), với đặc thù có hơn 66% học sinh là người dân tộc thiểu số Ê Đê, từ đầu năm học 2025 - 2026, đơn vị đã đưa chuyên đề dệt thổ cẩm vào trường học và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Những buổi học được tổ chức với đầy đủ trang phục, hình ảnh trực quan về nghề dệt thổ cẩm; qua đó giúp học sinh hiểu thêm giá trị nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Hiện nay, việc đưa di sản văn hóa vào trường học trong bối cảnh triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 tại Đắk Lắk không chỉ góp phần bồi dưỡng phẩm chất, năng lực học sinh mà còn là nhiệm vụ quan trọng để học sinh nâng cao nhận thức bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Bởi nơi đây có kho tàng di sản vật thể và phi vật thể đặc sắc như: Không gian văn hóa cồng chiêng, sử thi, nghề truyền thống, kiến trúc nhà dài…
Trưởng Phòng Giáo dục phổ thông (Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk) Lê Thị Thảo nêu rõ, phần lớn học sinh có thái độ tích cực, hào hứng khi tham gia các hoạt động trải nghiệm văn hóa địa phương. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết của các em về các giá trị di sản văn hóa khác nhau. Nhiều em nhận diện tốt các biểu tượng văn hóa quen thuộc như: Cồng chiêng, lễ hội, trang phục… nhưng lại thiếu kiến thức về di tích lịch sử, lời nói vần, nghề truyền thống…
Việc giảng dạy văn hóa truyền thống địa phương trong nhà trường hiện cũng gặp nhiều khó khăn, như: Thiếu tài liệu dạy học chuyên biệt; hoạt động trải nghiệm, điền dã còn hạn chế; sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng chưa thường xuyên; kinh phí và cơ sở vật chất giảng dạy chưa đáp ứng nhu cầu. Trên thực tế, nếu được tăng cường nguồn lực và bồi dưỡng phương pháp dạy học đa dạng, đội ngũ giáo viên sẽ đáp ứng được các mô hình giáo dục di sản.
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk cùng các cơ quan liên quan đang tập trung rà soát, ghi nhận các ý kiến đóng góp từ cơ sở để thống nhất xây dựng một giải pháp nhằm đưa di sản văn hóa Tây Nguyên trở thành chất liệu giáo dục sinh động, giúp học sinh thêm hiểu biết về những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, quê hương mình./.
Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số: 331.194 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.
Ăn: Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.
Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.
Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.
Quan hệ xã hội: Gia đình Ê Đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.
Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.
Lễ Tết: Người Ê Đê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.
Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê Đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê Đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em Ê Đê ưa thích.
Theo cema.gov.vn