Trong những ngày cả nước náo nức kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9, khu hạ sơn của đồng bào Mông ở xóm Đà Vĩ, xã Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng, ngập tràn sắc đỏ cờ Đảng, cờ Tổ quốc, nhân dân náo nức đón Tết Độc lập. Đồng bào coi đây là ngày hội lớn, thiêng liêng, gắn liền với niềm tin và niềm tự hào dân tộc.

Ngay từ sáng sớm, khu hạ sơn của đồng bào Mông đã rộn ràng bước vào ngày hội lớn của dân tộc. Người dân hối hả dọn dẹp đường làng ngõ xóm. Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trước cửa mỗi nhà dân, dải cờ phướn nhiều màu được chăng lên.

Người dân xóm Hạ Sơn náo nức đón chờ Tết Độc lập.
Tất cả nổi bật giữa màu xanh núi rừng, tạo nên khung cảnh vừa rực rỡ, vừa thiêng liêng. Tiếng nói cười rộn rã, tiếng bước chân gấp gáp, xen lẫn tiếng trẻ nhỏ chạy khắp nơi phụ giúp người lớn treo cờ hòa thành một bức tranh sinh động của ngày Tết Độc lập nơi vùng cao.

Ông Ngô Văn Sìa (77 tuổi, dân tộc Mông, khu hạ sơn xóm Đà Vĩ, xã Quảng Uyên) cho biết, trước đây, cuộc sống của đồng bào Mông ở trên núi cao gặp nhiều khó khăn. Nhờ sự quan tâm của Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương đã xây dựng nhà ở cho bà con ở khu hạ sơn xóm Đà Vĩ. Sau 10 năm hạ sơn, đời sống của đồng bào đã ổn định, khởi sắc rõ rệt. Điện lưới quốc gia đã về tới từng ngôi nhà, nước sạch hợp vệ sinh đã đến từng hộ. Đường bê tông rộng mở, phẳng phiu thay cho những lối mòn sỏi đá, giúp người dân đi lại dễ dàng, thuận tiện giao thương, buôn bán. Trẻ em trong xóm đều được đến trường đầy đủ, không còn cảnh bỏ học vì đường xa, núi cao…

Đồng bào Mông khu hạ sơn xóm Đà Vĩ treo ảnh Bác Hồ ở nơi trang trọng nhất trong nhà.
Tại nhà anh Ngô Văn Dình (sinh năm 1991, khu hạ sơn xóm Đà Vĩ, xã Quảng Uyên) là hộ có mạng internet mạnh nhất của xóm vùng cao này, bà con trong xóm cùng nhau tụ họp đến nhà anh để xem các chương trình kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh 2/9.

Đồng bào Mông khu hạ sơn xóm Đà Vĩ treo ảnh Bác Hồ ở nơi trang trọng nhất trong nhà.
Trong căn nhà được trang trí giản dị nhưng ấm cúng, tấm ảnh Bác Hồ được treo ở nơi trang trọng nhất, mọi người ngồi quây quần bên nhau, cùng nhau kể lại chuyện Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình; chuyện xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo của xóm... Những câu chuyện đã một lần nữa thắp sáng niềm tự hào dân tộc và niềm tin về một tương lai tươi sáng của đồng bào Mông xóm Đà Vĩ.
"Tết Độc lập là dịp để bà con tỏ lòng thành kính, tưởng nhớ công ơn Bác Hồ, ơn Đảng đã mang lại cuộc sống ấm no ngày hôm nay, cũng như giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống cách mạng, có trách nhiệm xây dựng quê hương", anh Dình chia sẻ.

Cùng với sự quan tâm của chính quyền địa phương, bà con trong xóm ngày càng chủ động hơn trong việc vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Để tăng thu nhập, nhiều hộ gia đình cũng đã mạnh dạn áp dụng các mô hình sản xuất mới. Anh Hoàng Văn Tôn, khu hạ sơn xóm Đà Vĩ, xã Quảng Uyên chia sẻ, gia đình anh hiện nuôi bò, lợn và trồng các giống ngô cho năng suất cao. Hiện, đời sống của gia đình anh đã ổn định, từng bước vươn lên thoát nghèo. Anh rất phấn khởi và hy vọng Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm để đồng bào Mông nơi đây có cuộc sống ấm no hơn.

Một hộ đồng bào Mông ở khu hạ sơn chăn nuôi lợn để tăng thu nhập.
Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Uyên Bế Bình An cho biết thêm, năm 2015, đã có 10 hộ dân người Mông từ vùng núi cao Lũng Đắc quyết định xuống định cư tại khu hạ sơn. Đến nay, cả xóm có 23 hộ đang sinh sống. Bà con luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; đoàn kết, giúp đỡ nhau trong đời sống, sản xuất và phát triển kinh tế.

Gia đình anh Ngô Văn Dình chăn nuôi bò để tăng thu nhập.
Thời gian tới, cấp ủy, chính quyền xã sẽ tiếp tục quan tâm chăm lo nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Mông nói riêng. Xã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ hỗ trợ vốn, vật tư, kỹ thuật…để đồng bào đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế.
Chia tay bà con khu hạ sơn xóm Đà Vĩ khi ánh nắng chiều đã tắt, trên hệ thống loa truyền thanh của xóm vang lên bài hát “Người Mèo ơn Đảng”, chúng tôi thêm hiểu, đồng bào Mông ngày càng quyết tâm một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp, no ấm hơn./.

Đồng bào Mông treo cờ Tổ quốc mừng Tết Độc lập.

Trẻ em đồng bào Mông khu hạ sơn xóm Đà Vĩ náo nức đón Tết Độc lập.

Trẻ em đồng bào Mông khu hạ sơn xóm Đà Vĩ náo nức đón Tết Độc lập.

Người dân xóm Hạ Sơn náo nức đón chờ Tết Độc lập.

Đồng bào Mông treo cờ Tổ quốc mừng Tết Độc lập.

Người dân xóm Hạ Sơn náo nức đón chờ Tết Độc lập.
Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.
Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.
Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.
Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...
Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.
Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.
Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.
Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.
Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.
Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.
Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.
Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.
Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Ở: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.
Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.
Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.
Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.
Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.
Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.
Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.
Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...
Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.
Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.
Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.
Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.
Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.
Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.
Theo cema.gov.vn
