Hiện nay, tỉnh Thanh Hóa là mái nhà chung của bảy dân tộc: Kinh, Mường, Thái, Mông, Thổ, Dao, Khơ Mú. Qua bao đời cùng đoàn kết, sinh sống đan xen, cộng đồng các dân tộc đã kiến tạo nên kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa sắc màu.
Trong dòng chảy ấy, lễ hội Pôồn Pôông của người Mường hiện lên như một “bông hoa” rực rỡ, đong đầy hơi thở của núi rừng và tâm hồn con người xứ Thanh. Mỗi mùa lễ hội diễn ra, tiếng hát, điệu múa lại ngân vang bên cây Pôông, kể cho hôm nay nghe câu chuyện về cội nguồn, về đời sống lao động và tín ngưỡng của cộng đồng Mường qua bao thế hệ. Lễ hội Pôồn Pôông của người Mường, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia từ năm 2016.
Theo Luật Di sản: “Di sản văn hóa phi vật thể là tri thức, kỹ năng, tập quán, biểu đạt văn hóa cùng đồ vật, đồ tạo tác, không gian liên quan được cộng đồng, nhóm người, cá nhân thực hành, trao truyền qua nhiều thế hệ và hình thành nên bản sắc văn hóa của họ, không ngừng được trao truyền, bảo vệ, tái tạo, sáng tạo, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các loại hình sau đây:
1. Biểu đạt và truyền thống truyền khẩu gồm các hình thức thể hiện thông tin bằng ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, ký tự và ngữ văn dân gian;
2. Nghệ thuật trình diễn dân gian gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu truyền thống và các hình thức trình diễn dân gian khác;
3. Tập quán xã hội và tín ngưỡng gồm các thực hành thường xuyên, ổn định, thể hiện quan niệm, niềm tin của cộng đồng, thông qua các lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống mang bản sắc văn hóa của cộng đồng chủ thể;
4. Lễ hội truyền thống gồm các thực hành nghi lễ và sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng đồng, được thực hiện theo chu kỳ tại không gian văn hóa liên quan;
5. Tri thức dân gian gồm tri thức về tự nhiên và vũ trụ, sức khỏe và đời sống con người, lao động, sản xuất, phòng bệnh, chữa bệnh, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác;
6. Nghề thủ công truyền thống gồm các thực hành thủ công bằng tri thức, kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết, nghệ thuật cùng với công cụ, đồ vật, đồ tạo tác, nguyên vật liệu tự nhiên, tạo ra các sản phẩm mang bản sắc văn hóa của cộng đồng chủ thể.
Theo tiếng Mường, “Pôồn” nghĩa là chơi, nhảy múa; “Pôông” nghĩa là bông, bông hoa; “Pôồn Pôông” vì thế được hiểu là “nhảy múa bên hoa”, hay “lễ hội chơi hoa”. Lễ hội thường diễn ra vào rằm tháng Giêng, tháng Ba, tháng Bảy hoặc vào mùa gặt, nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, mọi người mạnh khỏe, bản làng yên vui.
Lễ hội Pôồn Pôông gồm hai phần chính: Phần lễ và phần diễn trò. Các trò diễn xướng đều xoay quanh cây Pôông, hình ảnh mô phỏng phong tục, tập quán, đời sống tâm linh và văn hóa tinh thần của người Mường. Những nhân vật tham gia có nhiệm vụ tái hiện các động tác lao động sản xuất và sinh hoạt thường ngày bằng những điệu múa dân gian giàu tính biểu tượng.
Người Mường gọi nhân vật giữ vai trò trung tâm trong lễ hội là Ậu Máy - Chủ lễ, đồng thời là người chủ trì cuộc Pôồn Pôông. Ậu Máy thường là người có uy tín trong cộng đồng, được truyền nghề từ các thế hệ Ậu Máy trước, am hiểu cúng bái, bốc thuốc chữa bệnh, lại múa đẹp, hát hay. Bên cạnh đó, lễ hội cần ít nhất sáu người cùng diễn trò chung quanh cây Pôông để tạo nên bức tranh lễ hội sinh động.
Pôồn Pôông bắt nguồn từ sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường, gồm 48 trò diễn xướng xoay quanh cây Bông, biểu tượng của vũ trụ bao la, nơi quy tụ vạn vật mà tạo hóa ban tặng cho con người. Cây bông được làm từ thân tre, trang trí bằng những chùm hoa sặc sỡ đẽo từ gỗ chạng bạng, cùng các hình muông thú, nông cụ sản xuất… Một số trò diễn tiêu biểu gồm: Chia đất - chia nước, phát nương - phát rẫy, cày bừa, cấy lúa, làm cỏ, gặt, gánh lúa, đập lúa, xay giã, sảy sàng gạo, đồ xôi, đánh cá, chọi trâu, chọi gà, bắt hổ giữ, ném còn… tạo nên không khí rộn ràng, đậm chất núi rừng Mường.
Trong các tiết mục tái hiện lễ hội, người xem đặc biệt bị cuốn hút bởi tài nghệ của Nghệ nhân nhân dân Phạm Thị Tắng, một trong những bà Ậu Máy nổi tiếng khắp các bản Mường xứ Thanh. Bà được các bậc tiền bối “Nổ Máy” truyền lại sứ mệnh “cứu dân độ thế”, am tường cúng bái, bốc thuốc, lại múa hay hát giỏi. Không chỉ giữ gìn và lan tỏa giá trị của Pôồn Pôông, bà còn góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc, chung tay cùng các dân tộc anh em xây dựng quê hương ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Theo Luật Di sản văn hoá: “Nguyên tắc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa:
1. Mọi di sản văn hóa trên lãnh thổ Việt Nam, có xuất xứ ở trong nước hoặc từ nước ngoài, thuộc các hình thức sở hữu đều được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng và cá nhân.
3. Di sản văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài được bảo hộ theo luật pháp quốc tế và theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, hài hòa với quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cộng đồng, cá nhân; tôn trọng sự đa dạng văn hóa, sự đối thoại giữa các cộng đồng và tính đặc thù dân tộc, vùng, miền.
5. Ưu tiên bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, các dân tộc thiểu số rất ít người và những di sản văn hóa có giá trị toàn cộng đồng, xã hội.
6. Bảo đảm giữ gìn tối đa yếu tố gốc cấu thành di tích và tính nguyên gốc của di sản tư liệu; giá trị và hình thức thể hiện vốn có của di sản văn hóa phi vật thể.
7. Tôn trọng quyền của chủ thể di sản văn hóa phi vật thể và nghệ nhân di sản văn hóa phi vật thể trong việc quyết định các yếu tố cần được bảo vệ và hình thức, mức độ cần được phát huy của di sản văn hóa; xác định nguy cơ, tác động đe dọa sự tồn tại và lựa chọn giải pháp bảo vệ di sản văn hóa.
8. Lồng ghép việc bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng, địa phương”.
Những điệu múa bên cây bông, những trò diễn tái hiện vòng đời lao động và tín ngưỡng, hay hình ảnh các bà Ậu Máy cần mẫn truyền nghề… tất cả đã tạo nên bản sắc riêng có của vùng Mường xứ Thanh. Trong nhịp sống hiện đại, lễ hội Pôồn Pôông tiếp tục được gìn giữ và lan tỏa, trở thành minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa truyền thống. Từ những mùa lễ hội hôm nay, người Mường thêm một lần khẳng định niềm tự hào và trách nhiệm với di sản cha ông, góp phần làm giàu thêm sắc màu văn hóa Việt Nam, hướng tới một cộng đồng đoàn kết, phồn vinh và hạnh phúc.
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.