Với đặc điểm đa dạng về tộc người và văn hóa, Đồng Nai được ví như một “Đông Nam Bộ bản địa thu nhỏ”.

Nơi đây hội tụ nhiều giá trị tri thức bản địa phong phú, in đậm dấu ấn trong đời sống xã hội và cộng đồng cư dân. Từ hình thức tổ chức buôn làng, luật tục, vai trò của già làng, hệ thống quy ước cộng đồng, cho đến kho tàng tri thức về tín ngưỡng, phong tục, lễ hội và nghệ thuật dân gian đã tạo nên một nền di sản văn hóa phi vật thể đặc trưng, góp phần định hình sắc thái riêng có của Đồng Nai.
Nguồn lực đa dạng, phong phú
Đồng Nai có nhiều di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Lễ hội chùa Ông; Lễ hội miếu Bà Rá; Tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng; Lễ hội Dua Tpeng (Phá Bàu) của người Khmer; Lễ hội Cầu bông của người Kinh; Nghề thủ công truyền thống dệt thổ cẩm của người M’nông; nghề đan gùi của dân tộc S’tiêng… Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đưa Lễ giỗ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và Lễ hội Sayangva (cúng thần lúa) của người Chơ Ro vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thơ, Trường Đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, di sản văn hóa phi vật thể của Đồng Nai là hệ thống tri thức bản địa cùng phong tục tập quán, nghệ thuật trình diễn và lễ hội của các dân tộc. Tất cả đều mang tính đặc thù mà không một địa phương nào có được. Đây sẽ là nguồn lực trí tuệ văn hóa quan trọng giúp tạo nên sắc thái riêng của tỉnh.
Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới, Trường đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, di sản văn hóa phi vật thể ở Đồng Nai vốn đã được tạo dựng, lưu truyền từ bao thế hệ, vượt qua chiến tranh, nghèo khổ, duy trì sự sống đến hôm nay. Phần lớn những di sản đang có nguy cơ bị mai một hoặc gặp nhiều trở ngại phát triển trong thời kỳ trọng kim tiền.
Để bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể, trước khi sáp nhập, tỉnh Bình Phước (cũ) và Đồng Nai đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Ngành Văn hóa đã kết hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương và địa phương triển khai hàng loạt đề tài, dự án nghiên cứu khoa học về bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể như: Phục dựng Lễ hội Lập làng mới của người S’tiêng, Lễ hội Phá Bàu và Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước (cũ); phục dựng Lễ hội kết bạn của cộng đồng người M’nông...
Hằng năm, các hoạt động văn hóa dân gian như: Liên hoan cồng chiêng, thi hát dân ca và các trò chơi dân gian... được tổ chức, góp phần nuôi dưỡng đời sống tinh thần cộng đồng. Cùng với đó, các câu lạc bộ đàn tính, hát then hoạt động sôi nổi, thường xuyên tổ chức giao lưu, biểu diễn và truyền dạy cho thế hệ trẻ. Nhiều lễ hội dân gian như lễ hội té nước cầu mưa, cầu phước, hát múa lâm thôn... vẫn được duy trì, gìn giữ và phát huy ý nghĩa trong cộng đồng.
Gần đây, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đã phục dựng thành công Lễ hội Kết bạn cộng đồng của đồng bào S’tiêng, M’nông. Lễ hội không chỉ tái hiện những nét văn hóa truyền thống mà còn là dịp kết nối cộng đồng các dân tộc trên cùng địa bàn, thắt chặt tình đoàn kết, tương trợ nhau trong đời sống, lao động và sản xuất.
Người uy tín Điểu Khang (xã Bù Đăng, tỉnh Đồng Nai) cho biết Lễ hội Kết bạn cộng đồng là lễ hội truyền thống của đồng bào S’tiêng. Trải qua thời gian dài, lễ hội dần mai một, nhiều con em đồng bào hầu như không biết hoặc chỉ nghe nói về lễ hội. Do đó, việc chính quyền địa phương phục dựng lễ hội mang ý nghĩa sâu sắc nhằm bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào S’tiêng nói riêng.
“Chúng tôi mong chính quyền địa phương tiếp tục quan tâm, hỗ trợ đồng bào tổ chức lễ hội trong thời gian tới để văn hóa truyền thống tốt đẹp không bị mai một”, ông Điểu Khang chia sẻ.
Ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ tổng hợp xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai cho biết: Lễ hội Kết bạn cộng đồng được phục dựng dựa trên những yếu tố truyền thống cốt lõi cấu thành lễ hội từ xa xưa. Tuy nhiên, để phù hợp với thời đại và điều kiện xã hội hiện nay, Ban tổ chức đã trao đổi kỹ với đại diện đồng bào để điều chỉnh, bổ sung một số nội dung. Theo ông Tuấn, đây là hoạt động hết sức ý nghĩa, tạo điều kiện để bà con đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn được giao lưu, gắn bó và tăng cường tình đoàn kết. Việc phục dựng không chỉ nhằm khôi phục những nét văn hóa đặc sắc mà còn góp phần làm giàu đời sống tinh thần và tăng cường sự gắn kết cộng đồng.
Chung tay từ cộng đồng

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới (Trường đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh), để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, về nhận thức, tỉnh cần đến các giải pháp thường xuyên, phổ quát tuyên truyền, giáo dục, làm rõ để cộng đồng và toàn xã hội nhận biết về giá trị, vai trò, ý nghĩa của từng di sản văn hóa phi vật thể trong đời sống.
Đối với các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, dù đã hay chưa được xếp hạng cần được quản lý theo hướng rõ ràng về thẩm quyền, phân cấp cụ thể, xác định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng địa phương. Di sản văn hóa phi vật thể không tồn tại độc lập mà gắn chặt với môi trường văn hóa vật thể, vì vậy việc tái hiện, phục dựng các không gian sinh hoạt truyền thống là yếu tố then chốt nhằm duy trì “môi trường sống” cho di sản.
Bên cạnh đó, tỉnh cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), trong công tác tuyên truyền, giáo dục, cũng như sáng tạo sản phẩm văn hóa mới mang tính ứng dụng cao, có thể trở thành hàng hóa và vật phẩm phục vụ giao lưu, quảng bá. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cũng cần gắn liền với phát triển du lịch bền vững, góp phần tạo nên “hồn cốt” văn hóa cho sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương.
Một trong những hạn chế lớn trong công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể tại Đồng Nai là việc thiếu chủ trương và giải pháp cụ thể nhằm tôn vinh nghệ nhân và thúc đẩy truyền nghề. Với loại hình di sản văn hóa phi vật thể, nghệ nhân được xem là “hồn cốt” – người nắm giữ, thực hành và truyền lại các giá trị văn hóa chủ yếu qua thực tiễn, kinh nghiệm và truyền khẩu, chứ không dựa vào hệ thống giáo trình hay bằng cấp chuyên môn. Vì vậy, việc khuyến khích, ghi nhận, tôn vinh nghệ nhân và tạo điều kiện để họ truyền dạy là việc làm cần thiết, mang tính đặc thù.
Riêng với loại hình Đờn ca tài tử, Thạc sĩ, Soạn giả Lâm Hữu Tặng (phường Đồng Xoài, tỉnh Đồng Nai) đề xuất, các địa phương cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế thừa, tập trung vào những người có năng khiếu và đam mê. Đồng thời, việc cấp giấy chứng nhận cho học viên tham gia các lớp bồi dưỡng cũng là hình thức ghi nhận chính đáng và tạo động lực phát triển đội ngũ nghệ nhân kế cận.
Ngành văn hóa tiếp tục tạo điều kiện cho lực lượng “Nghệ nhân Ưu tú” tham gia thực hành, giao lưu, trau đồi trình độ nhằm đủ điều kiện xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”. Với những nghệ nhân chưa đủ tiêu chuẩn đạt danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” nhưng nắm giữ kỹ năng, bí quyết thực hành và có nhiều đóng góp xuất sắc trong việc bảo tồn và phát huy giá trị Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ thì địa phương cần có tiêu chí khen thưởng, ghi nhận xứng đáng.
Ở góc độ khác, Giáo sư, Tiến sĩ Cao Việt Hiếu (Trường Đại học Bình Dương) đề xuất để di sản văn hóa, văn hóa cộng đồng trở thành nguồn lực phát triển kinh tế cần có chính sách tài chính phù hợp. Tỉnh cần dành ngân sách nhất định đủ để thực hiện các hoạt động nhằm phát huy di sản văn hóa, đưa văn hóa tham gia phát triển kinh tế. Nhiều di sản văn hóa của tỉnh hiện ở dạng tiềm năng, nếu được phát huy đúng cách sẽ trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch đặc trưng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh./.
Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Dân số: 26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.
Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.
Ăn: Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau.
Mặc: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.
Ở: Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại Sông Bé (tỉnh Sông Bé từ năm 1997 đã được chia tách thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước) và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh. Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá - nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.
Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.
Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.
Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.
Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.
Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.
Lễ tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.
Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.
Học: Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.
Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.
Chơi: Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.
Theo cema.gov.vn
