Phát huy giá trị tri thức bản địa phong phú của đồng bào dân tộc thiểu số

Với đặc điểm đa dạng về tộc người và văn hóa, Đồng Nai được ví như một “Đông Nam Bộ bản địa thu nhỏ”.

le-hoi-230725-1.jpg
Lễ hội Sayangva (mừng lúa mới) của đồng bào dân tộc Chơ Ro. Ảnh: TTXVN phát

Nơi đây hội tụ nhiều giá trị tri thức bản địa phong phú, in đậm dấu ấn trong đời sống xã hội và cộng đồng cư dân. Từ hình thức tổ chức buôn làng, luật tục, vai trò của già làng, hệ thống quy ước cộng đồng, cho đến kho tàng tri thức về tín ngưỡng, phong tục, lễ hội và nghệ thuật dân gian đã tạo nên một nền di sản văn hóa phi vật thể đặc trưng, góp phần định hình sắc thái riêng có của Đồng Nai.

Nguồn lực đa dạng, phong phú

Đồng Nai có nhiều di sản văn hóa phi vật thể được ghi vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như: Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ; Lễ hội chùa Ông; Lễ hội miếu Bà Rá; Tri thức dân gian, nghề thủ công truyền thống Kỹ thuật chế biến rượu cần của người S’Tiêng; Lễ hội Dua Tpeng (Phá Bàu) của người Khmer; Lễ hội Cầu bông của người Kinh; Nghề thủ công truyền thống dệt thổ cẩm của người M’nông; nghề đan gùi của dân tộc S’tiêng… Mới đây, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đưa Lễ giỗ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh và Lễ hội Sayangva (cúng thần lúa) của người Chơ Ro vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thơ, Trường Đại học Khoa học - Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, di sản văn hóa phi vật thể của Đồng Nai là hệ thống tri thức bản địa cùng phong tục tập quán, nghệ thuật trình diễn và lễ hội của các dân tộc. Tất cả đều mang tính đặc thù mà không một địa phương nào có được. Đây sẽ là nguồn lực trí tuệ văn hóa quan trọng giúp tạo nên sắc thái riêng của tỉnh.

Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới, Trường đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, di sản văn hóa phi vật thể ở Đồng Nai vốn đã được tạo dựng, lưu truyền từ bao thế hệ, vượt qua chiến tranh, nghèo khổ, duy trì sự sống đến hôm nay. Phần lớn những di sản đang có nguy cơ bị mai một hoặc gặp nhiều trở ngại phát triển trong thời kỳ trọng kim tiền.

Để bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể, trước khi sáp nhập, tỉnh Bình Phước (cũ) và Đồng Nai đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Ngành Văn hóa đã kết hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương và địa phương triển khai hàng loạt đề tài, dự án nghiên cứu khoa học về bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể như: Phục dựng Lễ hội Lập làng mới của người S’tiêng, Lễ hội Phá Bàu và Lễ hội Xuống đồng của người Khmer Bình Phước (cũ); phục dựng Lễ hội kết bạn của cộng đồng người M’nông...

Hằng năm, các hoạt động văn hóa dân gian như: Liên hoan cồng chiêng, thi hát dân ca và các trò chơi dân gian... được tổ chức, góp phần nuôi dưỡng đời sống tinh thần cộng đồng. Cùng với đó, các câu lạc bộ đàn tính, hát then hoạt động sôi nổi, thường xuyên tổ chức giao lưu, biểu diễn và truyền dạy cho thế hệ trẻ. Nhiều lễ hội dân gian như lễ hội té nước cầu mưa, cầu phước, hát múa lâm thôn... vẫn được duy trì, gìn giữ và phát huy ý nghĩa trong cộng đồng.

Gần đây, tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo (xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai), chính quyền địa phương đã phục dựng thành công Lễ hội Kết bạn cộng đồng của đồng bào S’tiêng, M’nông. Lễ hội không chỉ tái hiện những nét văn hóa truyền thống mà còn là dịp kết nối cộng đồng các dân tộc trên cùng địa bàn, thắt chặt tình đoàn kết, tương trợ nhau trong đời sống, lao động và sản xuất.

Người uy tín Điểu Khang (xã Bù Đăng, tỉnh Đồng Nai) cho biết Lễ hội Kết bạn cộng đồng là lễ hội truyền thống của đồng bào S’tiêng. Trải qua thời gian dài, lễ hội dần mai một, nhiều con em đồng bào hầu như không biết hoặc chỉ nghe nói về lễ hội. Do đó, việc chính quyền địa phương phục dựng lễ hội mang ý nghĩa sâu sắc nhằm bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào S’tiêng nói riêng.

“Chúng tôi mong chính quyền địa phương tiếp tục quan tâm, hỗ trợ đồng bào tổ chức lễ hội trong thời gian tới để văn hóa truyền thống tốt đẹp không bị mai một”, ông Điểu Khang chia sẻ.

Ông Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ tổng hợp xã Bom Bo, tỉnh Đồng Nai cho biết: Lễ hội Kết bạn cộng đồng được phục dựng dựa trên những yếu tố truyền thống cốt lõi cấu thành lễ hội từ xa xưa. Tuy nhiên, để phù hợp với thời đại và điều kiện xã hội hiện nay, Ban tổ chức đã trao đổi kỹ với đại diện đồng bào để điều chỉnh, bổ sung một số nội dung. Theo ông Tuấn, đây là hoạt động hết sức ý nghĩa, tạo điều kiện để bà con đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn được giao lưu, gắn bó và tăng cường tình đoàn kết. Việc phục dựng không chỉ nhằm khôi phục những nét văn hóa đặc sắc mà còn góp phần làm giàu đời sống tinh thần và tăng cường sự gắn kết cộng đồng.

Chung tay từ cộng đồng

dan-toc-230725-1.jpg
Khách tham quan trải nghiệm văn hóa dân tộc bản địa Tà Lài. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới (Trường đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh), để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, về nhận thức, tỉnh cần đến các giải pháp thường xuyên, phổ quát tuyên truyền, giáo dục, làm rõ để cộng đồng và toàn xã hội nhận biết về giá trị, vai trò, ý nghĩa của từng di sản văn hóa phi vật thể trong đời sống.

Đối với các loại hình di sản văn hóa phi vật thể, dù đã hay chưa được xếp hạng cần được quản lý theo hướng rõ ràng về thẩm quyền, phân cấp cụ thể, xác định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng địa phương. Di sản văn hóa phi vật thể không tồn tại độc lập mà gắn chặt với môi trường văn hóa vật thể, vì vậy việc tái hiện, phục dựng các không gian sinh hoạt truyền thống là yếu tố then chốt nhằm duy trì “môi trường sống” cho di sản.

Bên cạnh đó, tỉnh cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI), trong công tác tuyên truyền, giáo dục, cũng như sáng tạo sản phẩm văn hóa mới mang tính ứng dụng cao, có thể trở thành hàng hóa và vật phẩm phục vụ giao lưu, quảng bá. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cũng cần gắn liền với phát triển du lịch bền vững, góp phần tạo nên “hồn cốt” văn hóa cho sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương.

Một trong những hạn chế lớn trong công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể tại Đồng Nai là việc thiếu chủ trương và giải pháp cụ thể nhằm tôn vinh nghệ nhân và thúc đẩy truyền nghề. Với loại hình di sản văn hóa phi vật thể, nghệ nhân được xem là “hồn cốt” – người nắm giữ, thực hành và truyền lại các giá trị văn hóa chủ yếu qua thực tiễn, kinh nghiệm và truyền khẩu, chứ không dựa vào hệ thống giáo trình hay bằng cấp chuyên môn. Vì vậy, việc khuyến khích, ghi nhận, tôn vinh nghệ nhân và tạo điều kiện để họ truyền dạy là việc làm cần thiết, mang tính đặc thù.

Riêng với loại hình Đờn ca tài tử, Thạc sĩ, Soạn giả Lâm Hữu Tặng (phường Đồng Xoài, tỉnh Đồng Nai) đề xuất, các địa phương cần xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ kế thừa, tập trung vào những người có năng khiếu và đam mê. Đồng thời, việc cấp giấy chứng nhận cho học viên tham gia các lớp bồi dưỡng cũng là hình thức ghi nhận chính đáng và tạo động lực phát triển đội ngũ nghệ nhân kế cận.

Ngành văn hóa tiếp tục tạo điều kiện cho lực lượng “Nghệ nhân Ưu tú” tham gia thực hành, giao lưu, trau đồi trình độ nhằm đủ điều kiện xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”. Với những nghệ nhân chưa đủ tiêu chuẩn đạt danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” nhưng nắm giữ kỹ năng, bí quyết thực hành và có nhiều đóng góp xuất sắc trong việc bảo tồn và phát huy giá trị Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ thì địa phương cần có tiêu chí khen thưởng, ghi nhận xứng đáng.

Ở góc độ khác, Giáo sư, Tiến sĩ Cao Việt Hiếu (Trường Đại học Bình Dương) đề xuất để di sản văn hóa, văn hóa cộng đồng trở thành nguồn lực phát triển kinh tế cần có chính sách tài chính phù hợp. Tỉnh cần dành ngân sách nhất định đủ để thực hiện các hoạt động nhằm phát huy di sản văn hóa, đưa văn hóa tham gia phát triển kinh tế. Nhiều di sản văn hóa của tỉnh hiện ở dạng tiềm năng, nếu được phát huy đúng cách sẽ trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch đặc trưng, đóng góp vào tăng trưởng bền vững của tỉnh./.

Dân tộc Chơ Ro

Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.

Dân số: 26.855 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).

Lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.

Hoạt động sản xuất: Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng. Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn, hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch). Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến. Trước đây một số người Chơ Ro đã là phu đồn điền nhưng chỉ với tư cách là những thợ rừng, họ vẫn có rẫy để canh tác.

Ăn: Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau.

Mặc: Xa xưa đàn ông đóng khố, đàn bà quấn váy tấm. Mùa hè ở trần hay mặc áo cánh ngắn, mùa lạnh thường khoác trên mình một tấm chăn. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.

: Hiện nay, người Chơ Ro sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và đông nam tỉnh Ðồng Nai. Nơi có số người Chơ Ro cư trú nhiều nhất là các xã: Xuân Bình, Xuân Trường, Xuân Thọ, Xuân Phú thuộc huyện Xuân Lộc; rồi thứ đến là các xã Hắc Dịch, Phước Thái, Ngãi Dao, Bàu Lâm thuộc huyện Châu Thành. Rải rác tại Sông Bé (tỉnh Sông Bé từ năm 1997 đã được chia tách thành 2 tỉnh Bình Dương, Bình Phước) và Bà Rịa, ven quốc lộ 15 cũng có một số gia đình Chơ Ro sinh sống. Trước khi có mặt tại những địa điểm nói trên, họ đã từng cư trú chủ yếu tại Bà Rịa - Long Khánh. Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, người Chơ Ro tiếp thu ngày càng mạnh mẽ văn hoá - nếp sống của người Việt ở miền Ðông Nam bộ. Trước đây, họ ở trên những ngôi nhà sàn cao, cửa ra vào mở ở đầu hồi. Ðến nay phổ biến ở nhà đất. Họ đã tiếp thu lối kiến trúc nhà cửa người nông dân Nam bộ: nhà có vì kèo. Nét xưa còn giữ được trong ngôi nhà là cái sạp nằm, chiếm nửa diện tích theo chiều ngang và dài suốt từ đầu đến cuối phần nội thất. Một số nhà có tường xây, mái ngói.

Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển chủ yếu của người Chơ Ro là cái gùi đan bằng tre, mây, cõng ở trên lưng.

Quan hệ xã hội: Trong cơ cấu xã hội Chơ Ro, các quan hệ của gia đình mẫu hệ đã tan rã nhưng quan hệ của gia đình phụ hệ chưa xác lập được. Tính chất gia đình song phương có nhiều biểu hiện, quyền thừa kế tài sản vẫn thuộc về người con gái. Trong gia đình, nữ giới vẫn được nể vì hơn nam giới. Xã hội mới manh nha có sự phân hoá về tài sản. Trong một làng gồm có nhiều dòng họ cùng cư trú.

Cưới xin: Việc lấy chồng, lấy vợ của người Chơ Ro tồn tại cả hai hình thức: nhà trai đi hỏi vợ hoặc nhà gái đi hỏi chồng. Hôn lễ tổ chức tại nhà gái, sau lễ thành hôn thì cư trú phía nhà vợ, sau vài năm sẽ dựng nhà ra ở riêng.

Ma chay: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.

Nhà mới: Lễ khánh thành nhà mới luôn là dịp chia vui giữa gia chủ với dòng họ và buôn làng.

Lễ tết: Ngày cúng thần lúa là dịp lễ trọng hàng năm. Các loại bánh như: bánh tét, bánh ống và bánh giầy trộn vừng được mọi nhà chế biến để ăn mừng và tiếp khách. Lễ cúng thần rừng được tổ chức như một dịp hội làng và hiện nay, cứ 3 năm một lần nghi lễ này lại được tổ chức trọng thể.

Lịch: Người Chơ Ro cũng có nông lịch riêng theo chu kỳ canh tác rẫy và căn cứ vào tuần trăng.

Học: Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.

Văn nghệ: Vốn văn nghệ dân gian chỉ còn một vài điệu hát đối đáp trong những dịp lễ hội, họ cất lên lời khẩn cầu Thần lúa và hiện nay rất ít người biết đến. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7 chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn. Ngoài ra, đàn ống tre, sáo dọc còn thường thấy ở vùng núi Châu Thành.

Chơi: Trẻ em thích chơi kéo co, cướp cành lá, bịt mắt bắt nhau, thả diều và đánh cù.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Chơ Ro

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.