Tại Sa Pa (tỉnh Lào Cai), hầu như tất cả phụ nữ Mông đen đều trồng lanh, dệt vải. Thông thường, lanh được gieo trồng vào tháng 3 và thu hoạch vào tháng 7. Sau khi thu hoạch, cây lanh được phơi khô, tước vỏ, tách thành các sợi nhỏ; rồi tiếp tục được giã, luộc, xe sợi và bôi sáp ong trước khi căng lên khung dệt.
Tất cả trang phục của đồng bào Mông nơi đây đều được nhuộm bằng lá cây chàm. Chàm thường được trồng trong vườn gần nhà, thu hoạch vào cuối mùa xuân. Sau đó, lá chàm được chế biến thành dung dịch sệt; vải được nhúng chàm và phơi khô nhiều lần liên tục trong khoảng 30 ngày.
Theo truyền thống, quần áo được khâu hoàn toàn bằng tay, với các mũi khâu màu trắng, hồng hoặc xanh chạy dọc theo đường viền. Hằng năm, phụ nữ Mông thường may một bộ trang phục mới cho mỗi thành viên trong gia đình. Hầu hết cổ áo đều được thêu theo chuỗi móc xích bằng chỉ đen, tạo thành các hoa văn hình xoắn ốc (cừ). Trong khi đó, tay áo và thắt lưng có hoa văn phong phú hơn, gồm hình dụng cụ quay sợi lanh (khau lì), hoa văn chân gà cùng các họa tiết cây cỏ, hoa lá.
Trong khi đó, trang phục truyền thống của phụ nữ Mông trắng ở Bát Xát (tỉnh Lào Cai) gồm áo có phần cổ hình chữ nhật được trang trí tinh xảo; quần ngắn đến bắp chân; xà cạp trơn màu đen; khăn quấn nhiều lớp trên đầu và một chiếc tạp dề. Tạp dề được trang trí rất công phu: Phần chính giữa là một mảng ghép vải thêu hoa văn lớn hình chữ nhật nằm ngang, hai bên là hai mảng chữ nhật nhỏ đặt dọc.
Phần thắt lưng nối với tấm tạp dề được ghép mỗi bên ba ô hình vuông, thêu cầu kỳ bằng kỹ thuật ghép vải trổ thủng với các hoa văn hình xoắn ốc đa dạng. Xen kẽ giữa các ô vuông này là những dải vải trơn màu đỏ, điểm thêm vài đường chỉ trắng thêu theo chiều dọc.
Hoa văn truyền thống trên trang phục của người Mông trắng nơi đây được sáng tạo từ những vật dụng quen thuộc trong đời sống hằng ngày như chiếc lược chải tóc, lỗ kim khâu, con ốc sên, bông hoa hay hạt dưa… Kỹ thuật thêu cũng rất tinh xảo, bao gồm thêu đáp vải hình xoắn ốc và thêu dấu nhân.
Dù các mẫu hoa văn truyền thống thường mang tông màu trầm, không quá sặc sỡ hay sử dụng những mảng màu lớn, nhưng vẫn có sức cuốn hút đặc biệt nhờ các đường nét thêu vô cùng tinh tế, cầu kỳ.
Tại Mù Cang Chải (tỉnh Yên Bái), cộng đồng người Mông vẫn gìn giữ được những bản sắc văn hóa riêng, độc đáo. Hầu hết người dân nơi đây vẫn mặc trang phục theo lối truyền thống, điều hiếm gặp ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số khác. Không chỉ phụ nữ, nam giới mà cả trẻ em cũng khoác lên mình những bộ trang phục được làm rất công phu, tinh xảo.
Trang phục truyền thống của người Mông Hoa ở Mù Cang Chải được may từ vải lanh, trang trí hoa văn bằng kỹ thuật vẽ sáp ong, nhuộm chàm, kết hợp với thêu và ghép vải. Ngày nay, người dân đã chuyển sang sử dụng vải cotton dệt công nghiệp màu đen có độ bóng cao; tuy nhiên, kiểu dáng và hình thức trang trí cơ bản vẫn giữ được phong cách truyền thống.
Không nổi bật về màu sắc, trang phục của người Mông Hoa mang gam màu trầm làm chủ đạo, chủ yếu là chàm và nâu. Dẫu vậy, các hoa văn trang trí lại vô cùng tinh tế, hài hòa, kết hợp giữa họa tiết vẽ sáp ong với những đường kẻ sọc, chấm nhỏ màu đỏ sậm và vàng, được khâu ghép cầu kỳ. Kỹ thuật vẽ sáp ong của phụ nữ Mông ở xã Chế Cu Nha đặc biệt thuần thục. Mỗi người thường sở hữu một bộ bút vẽ sáp ong Đá ô ta, gồm hàng chục chiếc với kích cỡ khác nhau. Bằng đôi bàn tay khéo léo và sự sáng tạo được chắt lọc qua nhiều thế hệ, họ đã tạo nên những tác phẩm dệt may độc đáo, giàu giá trị thẩm mỹ.
Bên cạnh đó, kỹ thuật nhuộm chàm với nhiều sắc độ đậm nhạt khác nhau ngay trên cùng một mảnh vải cũng là nét độc đáo, tạo nên sự khác biệt rõ rệt so với các nhóm Mông khác. Các hoa văn thêu và vẽ sáp ong không chỉ mang giá trị trang trí mà còn hàm chứa những ý nghĩa văn hóa sâu sắc, phản ánh thế giới quan và đời sống tinh thần của cộng đồng.
Tại tỉnh Điện Biên, người Mông Hoa vẫn lưu giữ được những bản sắc văn hóa truyền thống riêng, hết sức độc đáo. Trước đây, trang phục truyền thống của người Mông Hoa ở Tà Là Cáo được may từ vải lanh tự dệt, nhuộm chàm. Ngày nay, họ chuyển sang sử dụng các chất liệu công nghiệp sẵn có trên thị trường như vải láng đen hoặc vải nhung sẫm màu. Một bộ trang phục hoàn chỉnh gồm váy xếp ly, áo cánh, tạp dề, xà cạp, khăn đội đầu cùng các loại trang sức như vòng cổ, vòng tay, khuyên tai… Trong đó, váy và áo là hai thành phần được trang trí cầu kỳ, thể hiện rõ nhất các kỹ thuật tạo hoa văn truyền thống.
Chiếc váy truyền thống của phụ nữ Mông Hoa ở Tà Là Cáo được ghép từ ba phần. Phần trên cùng là vải lanh vẽ sáp ong, nhuộm chàm; phần giữa kết hợp kỹ thuật thêu dấu nhân và thêu ghép vải hết sức công phu; phần sát gấu váy sử dụng vải chàm hoặc vải nhung trơn sẫm màu. Để may một chiếc váy hoàn chỉnh cần khoảng 5 mét vải cho mỗi loại. Sau khi hoàn tất công đoạn trang trí, váy được xếp ly tỉ mỉ nhằm tạo độ mềm mại, thanh thoát mỗi khi người mặc di chuyển.
Áo truyền thống có lớp lót màu xanh nước biển, lớp ngoài bằng vải chàm sẫm hoặc đen, được trang trí tập trung ở nẹp cổ phía trước và gấu áo phía sau. Nẹp cổ được viền vải đỏ; phần giữa thêu ghép các hình vuông, hình kim cương, đường dích dắc, xen kẽ những quả bông nhỏ li ti bằng chỉ tơ. Cổ áo phía sau là một mảng hình chữ nhật lớn, viền vải các màu đỏ, xanh nước biển, vàng cùng nhiều đường chỉ nhỏ tạo điểm nhấn.
Chiếc địu em bé cũng là một vật dụng đặc biệt, chứa đựng tình yêu thương và sự chăm chút của người mẹ Mông Hoa. Phần trên của địu được thêu ghép vải, gắn những quả bông nhỏ nhiều màu sắc, viền xung quanh bằng các đường chỉ và vải đỏ đun. Phần dưới sử dụng vải chàm hoặc đen, trang trí bằng những đường ghép vải hình dích dắc tinh xảo.
Bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Mông trắng và Mông Hoa tại tỉnh Cao Bằng gồm áo ngắn liền vai kết hợp với chân váy lanh; bên ngoài váy được trang trí thêm tạp dề và dây lưng. Tương tự trang phục của các nhóm Mông khác, phần trang trí trên áo tập trung ở cổ áo, hai nẹp phía trước và miếng đáp hình chữ nhật phía sau lưng. Miếng đáp này được thêu rất cầu kỳ, với các lớp vải mỏng xếp chồng lên nhau, xen kẽ những gam màu trắng, xanh lá cây và vàng. Trong quá trình khâu viền cổ áo, người thợ tạo hình trước để các góc cổ áo lượn cong, hơi nhọn, sau đó mới bổ sung các chi tiết trang trí nhằm hoàn thiện tổng thể trang phục.
Bên cạnh cổ áo cầu kỳ, thắt lưng và ống tay áo cũng là những bộ phận quan trọng góp phần làm nên vẻ đẹp của bộ trang phục. Thắt lưng gồm hai dải vải dài, gắn liền với miếng tạp dề đơn giản màu chàm sẫm, hầu như không trang trí. Chiếc tạp dề (đại xáy) rộng khoảng 40 cm, thường được dùng để phủ phía trước váy, che phần tiếp nối của hai cuống váy. Ống tay áo được can thêm một đoạn hoa văn thêu hình “chữ thập” hoặc ghép một mảnh vải hoa in sẵn với màu sắc rực rỡ, tạo điểm nhấn sinh động cho trang phục.
Theo quy định pháp luật về bảo tồn văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như "Đề án bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam, thực hiện đến năm 2030" của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đã quy định cần bảo tồn, phát huy và sử dụng trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Tại Kỳ Sơn (tỉnh Nghệ An), phụ nữ Mông thường mặc trang phục truyền thống vào những dịp quan trọng như Tết, đám cưới, đám tang, chợ phiên hay các lễ nghi đặc biệt khác. Bộ trang phục truyền thống gồm quần rộng màu đen (hu thiếc) và áo dài màu đen (lu chiếu châm), trong đó cổ áo được thêu đáp mảnh rất công phu.
Một cô gái được coi là duyên dáng, hấp dẫn nhất khi thắt quanh hông chiếc thắt lưng thêu với hai gam màu hồng sáng và xanh lá cây nổi bật. Cô còn đeo thêm trang sức là một sợi dây chuyền bạc lớn (lu nhia). Ngoài ra, ví thêu trang trí và khăn xếp đội đầu cũng được sử dụng trong những dịp đặc biệt. Chiếc khăn xếp này dài hơn mười mét, được làm từ dải lụa màu tím, trang trí thêm một đoạn ruy băng kẻ sọc.
Theo truyền thống, của hồi môn của cô dâu Mông khá nhiều. Mỗi cô dâu mang về gia đình nhà chồng khoảng 10 bộ trang phục; ngược lại, gia đình chú rể tặng lại cho cô dâu quần áo và một chiếc vòng cổ có giá trị. Trong của hồi môn luôn có một chiếc váy trắng, bộ trang phục mà người phụ nữ sẽ giữ lại để mặc khi qua đời, nhằm để tổ tiên có thể nhận ra mình.
Bên cạnh đó, cổ áo (pan tau) là bộ phận thể hiện rõ sự khác biệt giữa các nhóm Mông, đồng thời phản ánh sự khéo léo của đôi bàn tay người phụ nữ. Họ sử dụng những chiếc kéo nhỏ để cắt trổ các đường nét hoa văn tinh xảo trên những mảnh vải rất mỏng, sau đó khâu ghép lên nền vải khác bằng các mũi khâu li ti, rồi tiếp tục thêu bổ sung vào những khoảng còn trống. Các họa tiết trổ ghép và thêu móc xích rất phong phú, thường lấy cảm hứng từ đời sống hằng ngày như hoa đào, con ốc, chim, dấu chân gà, đòn gánh, cối giã gạo hay hình ảnh chiếc cầu bằng ván đôi hoặc ván đơn.
Thắt lưng (quo xe xia) được tạo nên từ những ô vuông lụa màu hồng và xanh lá cây, trổ ghép thành hoa văn đáp trên nền vải trắng hoặc thêu bằng chỉ theo kỹ thuật thêu móc xích. Họa tiết phổ biến nhất là dạng xoắn tròn, gọi là “cu”, trông giống hình con ốc. Thắt lưng được gắn với một chiếc tạp dề dài hình chữ nhật màu đen. Đôi khi, người phụ nữ còn đính thêm các đồng xu Đông Dương thời Pháp thuộc lên thắt lưng; khi các cô gái bước đi hay nhún nhảy, những đồng xu này phát ra tiếng leng keng vui tai.
Dù có nhiều tác động của đời sống hiện đại, trang phục truyền thống của các nhóm Mông vẫn bền bỉ tồn tại như một mạch nguồn văn hóa không ngừng chảy. Trong từng đường thêu, mảng vẽ sáp ong hay sắc chàm trầm lắng là câu chuyện về cội nguồn, về bàn tay khéo léo của người phụ nữ và niềm tự hào bản sắc được gìn giữ qua thời gian. Đó là di sản của quá khứ, là giá trị sống động, góp phần làm nên chiều sâu văn hóa của các cộng đồng người Mông hôm nay và mai sau.
Bài viết theo đặt hàng của Vụ Pháp chế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.