Ngày 2/9, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), người Nùng Phàn Slình đến từ huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức tái hiện nghi thức cưới hỏi đặc sắc, giới thiệu những nét đẹp trong lễ cưới, góp phần bảo tồn và giữ gìn vốn văn hóa truyền thống quý báu của cha ông.
Cô dâu sửa soạn, trang điểm trước lễ cưới. Ảnh: Hoàng Tâm
Lễ cưới của người Nùng diễn ra với nhiều thủ tục, lễ nghi khá đặc sắc. Đặc biệt là lễ đón dâu.
Nhà trai sửa soạn lễ vật mang sang nhà gái. Ảnh: Hoàng Tâm
Lễ đón dâu của người Nùng phải đúng thời gian quy định như đã ước hẹn trong lễ ăn hỏi. Đoàn đón dâu của người Nùng thường là 6, 8 hoặc 10 người. Bởi theo quan niệm dân gian của người Nùng, số chẵn là số may mắn (đủ đôi, đủ cặp).
Đoàn nhà trai mang lễ vật sang nhà gái xin dâu. Ảnh: Hoàng Tâm
Đoàn người đi bao gồm: người gánh sính lễ, ông Mối - gọi ông Mòi; cô đón - nàng tẳng; chú rể - pò khưi và phù rể - khơi pợn.
Chú rể làm lễ xua đuổi tà ma trước khi vào nhà cô dâu. Ảnh: Hoàng Tâm
Tiếp đó ông Mòi sẽ làm nghi lễ cúng ma trước sân và tống tiễn những thành phần đó đi về. Chú rể thực hiện việc đá chân vào mâm lễ và lật úp chiếc mâm với ý nghĩa bảo vệ sự bình an cho gia đình.
Trước khi vào đón cô dâu, đợi người lớn làm lễ trong nhà, chú rể và đoàn đi xin dâu giao lưu với nhà gái để thêm thắm tình đoàn kết. Ảnh: Hoàng Tâm
Khi xuất hành đến nhà gái với các sính lễ, chú rể cúi lạy gia tiên bên Nhà gái, sau đó mời nước gia đình nhà gái và họ hàng hai bên đã đến chia vui.
Chú rể làm lễ vái lạy gia tiên nhà cô dâu và mời rượu mọi người. Ảnh: Hoàng Tâm
Đến giờ lành, ông mối tiến hành nghi lễ bổ cau, dùng quả cau chính là vật phẩm dâng cúng cho tổ tiên cũng là biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi.
Ông mối (nhà trai) và ông đưa (nhà gái) làm lễ bổ cau và trao giấy ghi số mệnh của cô dâu. Ảnh: Hoàng Tâm
Quả cau được bổ làm đôi để tượng trưng cho đôi lứa đã được tổ tiên chứng giám, hai bên gia đình và họ hàng chấp thuận, hạnh phúc viên mãn.
Sau khi đón cô dâu, cô dâu và chú rể ra làm lễ vái lạy tổ tiên và mời rượu mọi người. Ảnh: Hoàng Tâm
Đáp lại nghi lễ bổ cau, ông đưa - bên nhà gái sẽ giao tờ giấy đã ghi số mệnh - gọi là lục mình, ăn mình cho ông mối. Hai ông vui vẻ đáp từ bằng những câu chúc hạnh phúc.
Cô dâu mời rượu và chào họ hàng trước khi về nhà chồng. Ảnh: Hoàng Tâm
Trong lễ đón dâu, ông mối sẽ phải đối đáp bằng lối hát sli với nhà gái để xin rước cô dâu về.
Đoàn đưa dâu đưa cô dâu rời nhà gái về nhà chồng với của hồi môn được chuẩn bị sẵn. Ảnh: Hoàng Tâm
Theo phong tục, ngày xưa có nhiều dã thú và đề phòng bất trắc, nhà trai rước dâu sẽ đi trước, sau đó một đoạn lại quay lại đón dâu với ý nghĩa bảo vệ sự bình an, rồi tiếp tục hành trình.
Cô dâu thực hiện nghi thức xua đuổi tà ma trước khi vào nhà chồng. Ảnh: Hoàng Tâm
Khi đến nhà trai, cô dâu phải đứng ngoài sân làm một số thủ tục rồi mới được vào nhà, theo phong tục của người Nùng, trước khi vào nhà, cô dâu phải dùng chân làm đổ chiếc mâm mà gia đình nhà chú rể chuẩn bị và một số lễ vật để cúng xua đuổi tà mà và coi như từ nay cô dâu đã là người của nhà trai.
Ông mối làm lễ trải chiếu trong phòng cô dâu, chú rể. Ảnh: Hoàng Tâm
Sau đó, cô dâu sẽ vào lạy bàn thờ tổ tiên và ra mời trầu, mời nước bố, mẹ chồng và những người có tuổi trong họ nhà trai. Từ đây, đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng.
Cô dâu làm lễ đối với gia đình nhà chồng. Ảnh: Hoàng Tâm
Hai họ cùng vui hát Sli và Cỏ lẩu đám cưới để chúc phúc cho cô dâu, chủ rể có cuộc sống viên mãn, hạnh phúc trọn đời bên nhau.
Chú rể nhận chiếc chìa khóa hòm của hồi môn của cô dâu. Từ đây, cô dâu, chú rể đã là vợ chồng. Con dâu đã là con cái trong nhà, hai gia đình vui vẻ, đoàn kết chúc phúc cho cô dâu, chú rể. Ảnh: Hoàng Tâm
Cô dâu, chú rể người Nùng trong lễ cưới. Ảnh: Hoàng Tâm
Lễ cưới của đồng bào dân tộc Nùng là phong tục đặc sắc, là truyền thống văn hoá lâu đời thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng.
Hoàng Tâm