Đặc sắc trong hôn lễ của người Tày

Đặc sắc trong hôn lễ của người Tày
Thanh niên dân tộc Tày lày cỏ trong đám cưới. Ảnh: Việt Hoàn
Thanh niên dân tộc Tày lày cỏ trong đám cưới. Ảnh: Việt Hoàn
Người Tày coi trọng việc hướng con cái tìm hiểu bạn đời của mình để tạo dựng gia đình mới, phát triển dòng tộc. Họ rất quan tâm tới tổ tông, gia đình, dòng họ và đặc biệt là các tiêu chí chọn bạn đời. Trong tâm tưởng của các chàng trai, người con gái trước hết là hiền lành, nết na, lễ độ, đức hạnh, biết ứng xử, giao tiếp, có sức khỏe, đảm đang, cần cù, chịu khó trong lao động. Còn trong mắt các thiếu nữ, họ muốn lấy được chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô, tuấn tú, hiểu biết hơn mình, có đạo đức tốt, sinh ra từ một gia đình nền nếp, gia giáo, dòng tộc bề thế.

Để tiến tới hôn nhân, gia đình hai bên nam, nữ trải qua một quá trình chuẩn bị chu đáo theo các thủ tục, nấc bước lễ nghi mà phong tục tập quán lâu đời quy định. Khi đôi nam thanh, nữ tú đã bén duyên nhau, nhà trai chủ động sang nhà gái đặt vấn đề dạm hỏi, hay còn gọi là “pây au mỉnh” (xin lục mệnh). Lễ dạm hỏi gồm: 2 kg thịt lợn ngon, 2 kg đường phên, 1 chai rượu và chọn ngày lành sang nhà gái. Con số 2 là biểu tượng cho đôi trai, gái có tình cảm ngọt ngào, đằm thắm, gắn kết như đường mía. Phía nhà trai cử chú hoặc bác, cùng vài người thân trong gia đình, dòng tộc mang lễ đến nhà gái dâng hương bàn thờ tổ tiên. Trong buổi lễ, nhà trai đặt vấn đề, nói lên nguyện vọng của người con trai với bố mẹ, người thân nhà gái và xin nhà gái trao bản lục mệnh của con gái mình cho nhà trai. Đó là tín vật quan trọng để nhà trai mang về so lục mệnh đôi bên.

Tiếp đến là lễ “páo mỉnh” (báo mệnh), còn gọi là “páo hom” (báo thơm) hay “mỉnh hom” (mệnh thơm). Nhà trai cử một người đứng tuổi có uy tín và một cô gái tuổi thanh xuân trong gia đình hay dòng họ mang theo đồ lễ: xôi, gà luộc, thịt lợn sang nhà gái. Trong lễ, nhà trai hoan hỷ thông báo cho nhà gái biết là số mệnh hai con hợp nhau, từ nay xem như hai con đã được đính hôn. Nhà gái dâng lễ trình báo tổ tiên trước bàn thờ và mời ông, bà trưởng lão đến thông báo tin vui. Hai bên gia đình thống nhất cho đôi bạn trẻ tiếp tục tìm hiểu nhau. Trường hợp không phù hợp nhau về số mệnh, nhà trai cũng mang đồ lễ đến trân trọng trình báo và tỏ lòng nuối tiếc khi sự thể không thành, mong cho cô gái sẽ tìm được người bạn đời hợp duyên số, xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Hai gia đình và hai người con vẫn là bạn tốt của nhau, thậm chí đôi thanh niên nam nữ còn kết nghĩa anh em. 

Sau lễ “páo mỉnh” là lễ “xầư lùa” hay “dầư lùa” (còn gọi là sêu tết), thời gian này nhà gái chuẩn bị cho lễ cưới kéo dài ba năm. Nhà gái phải khẩn trương trồng bông, dệt vải, nhuộm chàm để làm chăn, màn, trang phục, giày vải... đều do người con gái tự tay thêu thùa, khâu vá. Ba năm là quãng thời gian để cha mẹ tiếp tục dạy bảo người con gái theo các tiêu chí: công, dung, ngôn, hạnh, bếp núc, đảm đang việc nhà. Đó cũng là dịp người thiếu nữ bày tỏ hết lòng kính trọng bậc sinh thành và yêu thương gia đình mà cố gắng, chăm chỉ làm việc chuẩn bị cho ngày cưới, báo đáp công ơn cha mẹ. Mặt khác, để giữ mối liên hệ mật thiết, gắn bó đôi bên, mỗi năm ba lần, khi đến Tết Rằm tháng 7, Tết Nguyên đán, nhà trai cử người mang quà, bánh, rượu đến thăm nhà gái bày tỏ tình cảm nồng ấm, chân thành giữa đôi bên.
Ba năm trôi qua là đến lễ “pây cạ vằn” (báo ngày cưới), còn gọi là lễ ăn hỏi. Nhà trai chủ động xem ngày lành tháng tốt, chuẩn bị đồ lễ sang nhà gái để thông báo ngày cưới. Đôi bên bàn bạc thống nhất về việc chuẩn bị cho lễ cưới như: lễ vật dẫn cưới, tiền, của hồi môn, ngày giờ đón dâu... Sau nghi thức này, xem như người con trai đã có vợ, con gái đã có chồng. Thường thì người Tày chọn ngày cưới vào dịp kết thúc mùa vụ, ấm no, nông nhàn, thời tiết mát mẻ trong năm và tiết xuân ấm áp, mùa sinh sôi nảy nở. Chọn ngày cưới đều tốt cho cả đôi bên gia đình, thời gian lễ cưới thường kéo dài hai ngày. Định ngày cưới  ít nhất phải trước một tháng để kịp chuẩn bị các điều kiện cần thiết. 

Lễ “kin lẩu” (còn gọi là lễ cưới), là nghi thức quan trọng nhất. Trước khi vào lễ cưới, nhà trai mang tiền đến cho nhà gái theo thỏa thuận đôi bên trong lễ ăn hỏi. Ít nhất trước lễ cưới 10 ngày, nhà trai mang sang đôi lợn thịt (trung bình từ 70 - 80 kg). Đến ngày cưới, đôi bên gia đình cùng tổ chức “song hỷ lâm môn”, họ hàng, bạn bè gần xa đến chúc mừng. Trước 24 giờ ngày đầu tiên, nhà trai tổ chức đoàn đi đón dâu, do quan lang dẫn đầu. Chú rể và phù rể cùng đoàn đón dâu đều mặc trang phục dân tộc Tày. Khi đến nhà gái, đoàn đón dâu phải lên tiếng, đọc thơ, làm các nghi thức xin phép để được vào nhà gái đón dâu. Đoàn nhà trai tiến hành các thủ tục trình báo tổ tiên, họ hàng, gia đình nhà gái, làm nghi lễ rải chiếu ngồi, bái tổ, dâng rượu bố mẹ, họ hàng, các bậc cao niên, dâng vải “bên ướt, bên khô”... Đoàn đón dâu và đưa dâu sang nhà trai cũng làm các nghi lễ vào nhà trai, nạp tổ cho con dâu, trình báo kết quả đoàn sang nhà gái với bố mẹ, họ hàng nhà trai. Cô dâu và phù dâu trong trang phục chàm, bộ xà tích lấp lánh, dây lưng gọn gàng cùng chú rể dâng rượu bố mẹ chồng và các cụ, ông bà, chú bác; nhận anh em trong nhà, dòng họ. Khi kết thúc lễ cưới bên nhà trai, cô dâu theo đoàn nhà gái trở về gia đình mình. 

Lễ "slam nâư” (lễ lại mặt), sau khi cưới được ba ngày, nhà trai cử chị hoặc em trong gia đình, họ hàng gánh đồ lễ cùng chú rể sang thăm và trình báo bố mẹ, họ hàng nhà gái; lần nữa tỏ lòng biết ơn công lao sinh thành, dưỡng dục của các bậc phụ thân. Lần này, khi ra về, người con dâu gánh về lại nhà chồng một nửa số quà. Dần dà, cứ đón đưa như vậy, đến lúc người phụ nữ có mang thì mới thực sự về thụ lễ "Slổng khoăn" nhập hồn vào tổ tiên nhà chồng.

Trong cuộc sống hôm nay, tục cưới xin của người Tày tuy đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn lưu giữ những nét văn hóa truyền thống đặc trưng của địa phương cần được phát huy.
Lê Chí Thanh (Theo Baocaobang.vn)

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.