Điêu khắc gỗ dân gian trong kiến trúc nhà mồ của người Jrai ở Gia Lai

Điêu khắc gỗ dân gian trong kiến trúc nhà mồ của người Jrai ở Gia Lai
Tượng mặt lệch nhà mồ làng Bua, Ia Pnôn, Đức Cơ
Tượng mặt lệch nhà mồ làng Bua, Ia Pnôn, Đức Cơ

Người Jrai sở hữu một nền điêu khắc dân gian độc đáo với lực lượng nghệ nhân tài hoa, họ là những “nghệ sĩ của buôn làng”, được Yang (thần linh) ban cho khả năng làm tượng gỗ. Người Jrai tạc tượng gỗ và sử dụng chúng với nhiều chức năng khác nhau, như: Hiến tế trong tang ma, trang trí ngôi nhà chung của làng – nhà rông, làm đẹp ngôi nhà ở – nhà sàn. Bài viết này, người viết chỉ xin được đề cập đến tượng gỗ với chức năng trang trí cho kiến trúc nhà mồ trong lễ bỏ mả – một nghi lễ quan trọng nhất trong các nghi lễ vòng đời của người Jrai.

Tượng gỗ NN Jrai làng Kép tạc mới TP. Pleiku
Tượng gỗ NN Jrai làng Kép tạc mới TP. Pleiku

Trang trí phục vụ tín ngưỡng tang ma

Người Jrai cũng giống như nhiều cư dân bản địa khác ở Bắc Tây Nguyên chịu nhiều ảnh hưởng của tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Họ tin rằng xung quanh con người luôn có nhiều vị thần (Yang), các Yang này bên họ, che chở, chi phối cuộc sống của họ từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Hệ thống thần linh của người Jrai gồm nhiều thần như: Yang hma (thần ruộng nương), Yang ktăn (thần sét), Yang chứ (thần rừng núi), Yang pên ia (thần bến nước), Yang hri (thần lúa), Yang pơ tao (vua), Yang sang (thân nhà), Yang ala bôn (thần làng)…2 Người Jrai tin rằng con người khi sống có linh hồn (bơngắt), khi chết linh hồn biến thành ma (atâu). “Atâu cũng có buôn làng, nhà cửa, cũng cần được ăn uống sinh hoạt như trên trần gian, nên người sống phải chia của cho người chết” 3. Với niềm tin đó, người chết sẽ được chia của cải, gồm nhiều thứ như: Đồ dùng cá nhân, gia súc gia cầm, ché ghè, tượng gỗ… người sống tin người chết sẽ mang theo những đồ đạc của cải được chia đó về làng ma. Người Jrai có tục chôn chung nên tang lễ khá phức tạp. Khi ngôi mộ chung đã đầy, cao thành mô đất lớn, dòng họ mới làm lễ bỏ mả. Lễ bỏ mả thường được tổ chức vào từ tháng 11 đến hết tháng 4 dương lịch hàng năm – Khi mùa màng đã thu hoạch xong và dân làng đang thư nhàn. Lớn mới đập trâu, bò. Trâu, bò bị cột vào cây gạo (hlang) được chôn sâu ở đầu mộ, cây này sau bám đất sống vươn thành cây lớn, đây là cách đánh dấu mộ của người thân của người Jrai và ước nguyện mong người thân luôn tồn tại mãi. Trước lễ bỏ mả một tuần hoặc lâu hơn, người nhà nhờ người tạc tượng để dựng quanh nhà mồ. Nghệ nhân Ksor Brôh ở xã Ia Ka huyện Chư Păh nói đó là tục lệ của người Jrai, ai biết tạc là tự đến giúp, tạc tượng là nghề của đàn ông, họ rủ nhau vào rừng lấy gỗ, kéo về tạc tại khu nhà mồ của làng, những tượng như nam nữ để lộ bộ phận sinh dục, nam nữ giao hoan thì tạc giấu ở trong rừng, không cho ai biết vì ngại dân làng chê cười. Phải là các nghệ nhân khéo tay mới tạc đẹp những tượng này, luôn làm dân làng thích thú khi chiêm ngưỡng lúc được dựng lên hai bên nhà mồ.

Tượng người, chim nhà mồ thôn Pă Pòong, xã AlBá, Chư Sê
Tượng người, chim nhà mồ thôn Pă Pòong, xã AlBá, Chư Sê

Tượng mặt lệch, tượng chim nhà mồ làng Ốp, TP. Pleiku
Tượng mặt lệch, tượng chim nhà mồ làng Ốp, TP. Pleiku

Tượng mồ nam nữ giao hoan tại nhà mồ làng kép Chư Pak
Tượng mồ nam nữ giao hoan tại nhà mồ làng kép Chư Pak

Tượng gỗ là sản phẩm không thể thiếu trong những lễ bỏ mả lớn của người Jrai. Hiện nay tại làng Kép Ping 1, 2 ở xã Ia Mơ Nông vẫn còn một số ngôi mộ chung có trang trí nhiều tượng gỗ xung quanh rất có hồn, đủ kiểu dáng và nhóm tượng với độ cao trung bình 90cm đến 1m7 không tính chân đế. Đầu năm 2015, có một lễ bỏ mả lớn diễn ra ở đây, đập 17 trâu bò và thu hút dân nhiều làng khắp vùng có liên quan đến dòng họ bỏ mả về tham gia. Tháng 3/2016, cũng có một lễ bỏ mả lớn cho 10 người cùng dòng họ thu hút một vài đoàn khách du lịch về tham dự. Tại xã Ia Kly huyện Chư Prông hiện đang còn một số khu nhà mồ trang trí tượng gỗ xung quanh cùng các cột klao, kut cao 4m – 6m thẳng vút lên trời với nhiều nét chạm khắc tinh tế hình mặt trăng, chiếc lá, nụ hoa chuối, chim, cá…

Tượng gỗ trang trí ở kiến trúc nhà mồ gọi là (nga rụp). Xung quanh nhà mồ là một hệ thống tượng với đủ loại: Đàn ông đàn bà, tượng mẹ bồng con, địu con, cồng con, bà cháu, tượng khỏa thân, ân ái, có cả tượng y tá, cô giáo, chú bộ đội, công an, tượng khỉ, tựng quả bầu, tượng chim cú, chim công, tượng voi (Chư Păh, Chư Prông, Ia Pa, Krông Pa) cầu thủ bóng đá, đôi nam nữ khiêu vũ, đôi tình nhân chở nhau bằng xe máy như ở Krông Pa, tượng ngà voi, rau dớn, khối tròn giống chiếc thớt của người Kinh, nồi bung, búp chuối, trái bầu… Đó là những tượng thường gặp ở hầu khắp các nhà mồ ở các huyện có người Jrai Hdrung sinh sống như làng Ốp, P. Hoa Lư, làng Choét 1, P. Thắng Lợi – TP. Pleiku, làng Sơr xã Biển Hồ, làng Klă, xã Ia Kly huyện Chư Prông…

Với những nét biểu cảm buồn thương, vui nhộn, khắc khổ, tư lự, xa xăm… hệ thống tượng gỗ dân gian trang trí khu vực nhà mồ đã để lại nhiều cảm xúc, suy nghĩ cho người xem về kiếp nhân sinh. Từ những khối gỗ tròn, nghệ nhân của làng đã tạo nên các đường nét, hình thù, sắc thái vô cùng sống động và hấp dẫn người chiêm ngưỡng qua từng nét vạt, khắc, đục, đẽo thô sơ song không kém phần tinh tế. Qua từng bức tượng mồ nơi những khu nhà mồ của các buôn làng Jrai, chúng ta thấy rõ sự phát triển nền điêu khắc dân gian của người dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Và khi được trang trí ở kiến trúc nhà mồ, tượng nhà mồ thực hiện sứ mệnh làm đẹp cho khu nghĩa địa của làng, cho ngôi mộ của người chết, tất cả các loại tượng người, thú, đồ vật, các cột trang trí điêu khắc xung quanh rào, trong nhà mồ đều là sản phẩm của người sống làm tặng cho người chết với tất cả sự trân trọng, thương mến, sự chia sẻ bình đẳng mang rõ tâm thức sống sao chết vậy. Những tượng gỗ lúc này có giá trị là những hình bóng thay thế người sống về làng ma cùng hồn ma bầu bạn, để người chết vui vẻ hạnh phúc đủ đầy, bằng lòng với những gì mình được quan tâm, được chia phần mà không về quấy phá người đang sống. Với ý nghĩa ấy, từng nhóm tượng người, thú, đồ vật và kể cả nhóm tượng mang yếu tố hiện đại đều thể hiện rõ chức năng phục vụ tín ngưỡng tang ma của người Jrai.

Thành tố nghệ thuật tạo nên không gian lễ bỏ mả

“Đối với các dân tộc Tây Nguyên như Jrai, Ê đê, Bahnar chết không phải là hết mà là sự tiếp tục cuộc sống khác để rồi sẽ trở lại làm người. Cuộc sống của con người theo quan niệm của người Tây Nguyên, dù trải qua các dạng tồn tại khác nhau, luôn luôn là trường tồn chứ không tan biến thành các hồn ma bóng quỷ dữ dằn. Cho nên, nhà mồ và lễ bỏ mả của người Tây Nguyên là biểu tượng của đề cao sự bất diệt của cuộc sống con người”.

Do đó kiến trúc nhà mồ và hệ thống tượng gỗ nghệ thuật mang tính nhân văn sâu sắc, tuy ngôi nhà không lớn nhưng các yếu tố phụ như tượng gỗ, các cột trang trí cao thấp khác nhau bên trong, xung quanh nhà mồ, những băng chạm khắc tô vẽ trên các nẹp, mái, nóc… lại là sự phối hợp tinh tế sáng tạo làm nên vẻ đẹp độc đáo cho tổng thể kiến trúc ngôi nhà. Tượng gỗ, các cột gỗ cùng những điêu khắc trang trí cho ngôi nhà mồ là một thành tố nghệ thuật không thể phủ nhận trong việc sáng tạo nên một tác phẩm kiến trúc hoàn hảo phục vụ cho cả người sống và người chết tại cùng một thời điểm: Lễ bỏ mả. Song do chức năng và mục đích thiết kế, sáng tạo, thực hiện tổ chức nghi lễ mang tính tạm thời chỉ phục vụ 7- 10 ngày cho lễ (trước đây), 1-3 ngày (hiện tại) nên những công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc gỗ này với chất liệu dễ hư hỏng sẽ không thể tồn tại lâu cùng thời gian mưa nắng khắc nghiệt của vùng đất đỏ cao nguyên. Tuổi đời “già” nhất của một kiến trúc nhà mồ cũng chỉ 15-20 năm trở lại (nếu nó được dựng bằng các loại gỗ, lá, dây chằng tốt), thế nên khó có thể tìm được lớp tượng cổ trong kho tàng tượng gỗ dân gian Tây Nguyên.

Trong kiến trúc nhà mồ, các trang trí điêu khắc gỗ xuất sắc nhất tập trung ở các tượng gỗ bao quanh ngôi nhà. Khi sáng tạo tượng nghệ nhân đều lấy chuẩn mực từ kích thước con người. “Tượng không cao quá một sải tay và không ngắn dưới một gang… Hầu như không có bộ phận trang trí nào ở nhà mồ có chiều cao quá một sải tức là quá tầm óc con người” 5. Tuy nhiên để tăng chiều cao cho tượng người Jrai đã thông minh dùng kĩ thuật lắp ghép chắp nối chân đế cho tượng, hoặc trang trí nhiều hình vẽ, chạm khắc liên tục trên các thân gỗ dài để tạo cảm giác tầm vóc hoành tráng cho tác phẩm. Vậy nên không ngạc nhiên gì khi nghệ nhân dân gian Jrai có thể làm những cột trang cúng cao vút hàng đến 3-5m, hay các cột kut, klao cao 5-6m, cùng nhiều tua rua bằng vải, lạt bện lơ lửng phấp phới giữa trời xanh. Hiện tại, ở một số khu nhà mồ ở các làng thuộc xã Ia Kly, Ia Bang, Ia Phìn huyện Chư Prông, làng Choet 2, P. Thắng Lợi – TP. Pleiku, các làng thuộc xã Ia Mnông, Ia Ly, Ia Ka huyện Chư Păh, xã Ia Broái, Chư Mố, Ia Kdăm huyện Ia Pa đang còn những cột trang trí này.

Nhà mồ và tượng mồ làng kép1 xã Ia Mnong chư păh
Nhà mồ và tượng mồ làng kép1 xã Ia Mnong chư păh

Nhà mồ làng kép Chư Păh
Nhà mồ làng kép Chư Păh

Tùy theo chất gỗ mà người Jrai sử dụng chúng để trang trí ngôi nhà mồ: Gỗ cứng, tốt dùng làm cột kèo, đẽo các loại tượng người đôi (cha cõng con, bà cồng cháu, nam nữ ân ái, mẹ ôm con), cột trang trí rào bảo vệ nhà mồ (gỗ hương, mít, dổi đen, cẩm lai, gụ, bồ kết, chôm chôm rừng, lác, đầm …); các loại gỗ mềm như gòn, vông để làm những chạm khắc nhỏ treo trên các cột kut, klao hay làm các thú nhỏ trang trí điểm xuyết quanh nhà mồ. Hiện tại các nghệ nhân thường sử dụng gỗ mít, gỗ muồng đen, xoài, chôm chôm, kà chít, bồ kết để tạc tượng gỗ khi có lễ bỏ mả vì rừng đã do Nhà nước quản lý, khó có thể vào lấy gỗ về tạc tượng cũng như dùng cho các nhu cầu sinh hoạt khác của đời sống nên nghệ nhân dùng gỗ lâu năm trong vườn, trong làng, nơi các làng lân cận để làm nguyên liệu sáng tạo. Tượng gỗ và một số cột được trang trí bằng điêu khắc gỗ trong nhà mồ của người Jrai là thành tố nghệ thuật tạo thành lễ bỏ mả, góp phần tạo nên một môi trường tế lễ linh thiêng trong nghi lễ cuối cùng, quan trọng trong đời người Jrai.

Thay lời kết

Lễ hội lớn nhất của người Jrai nói riêng và một số dân tộc Bắc Tây Nguyên đó chính là: Lễ bỏ mả. Với niềm tin ở làng ma (mang lung) hồn ma cũng sinh hoạt như trên cõi trần gian nên khi nên trước lễ bỏ mả gia đình, dòng họ người chết đã tập trung huy động sức người, sức của để làm nhà mồ đẹp, tạc nhiều tượng đẹp, trang trí các cột kút, klao dựng ở hai đầu nóc nhà mồ thật sinh động, làm những rối gỗ, mặt nạ, cột giàn cúng tế (pơ nang), giết trâu, bò cúng hồn ma, khấn và đánh cồng chiêng, múa bài tiễn hồn ma (điệu múa dungdai)… Sau lễ bỏ mả, toàn bộ nhà mả cùng đồ tế lễ, chia của bị bỏ không chăm sóc, dần bị quên lãng theo thời gian mưa nắng. Người sống tin rằng linh hồn người chết sẽ sử dụng toàn bộ những nhà mồ, tượng gỗ và mọi của cải được chia ở thế giới bên kia một cách bằng lòng, vui vẻ. Toàn bộ sản phẩm kiến trúc điêu khắc tại khu nhà mồ đó chính là sự tái hiện một cách sinh động theo trí tưởng tượng của người sống về thế giới người chết ở làng ma với đầy đủ mọi thứ vật chất như khi hồn ma còn sống, và những tượng gỗ đứng ngồi xung quanh nhà mồ với đủ kiểu dáng, sắc thái biểu cảm chính là những hình ảnh bè bạn, người thân thay thế người sống làm nhiệm vụ bảo vệ, chia sẻ buồn/vui với người chết ở cõi ma với mục đích cuối cùng là để người chết thanh thản theo tổ tiên ông bà về cõi mang lung.

Có thể nói rằng, những tượng gỗ dân gian được nghệ nhân tạc và trang trí tại kiến trúc nhà mồ, từ mỗi thân tượng với đủ dáng vẻ biểu cảm sự thương tiếc và quan tâm đến người đã chết. Kiến trúc nhà mồ cùng hệ thống tượng gỗ dân gian bao quanh nó và những nghệ thuật trình diễn cồng chiêng, soang, khấn, múa rối, ẩm thực được thể hiện trong lễ bỏ mả thực sự là nét văn hóa truyền thống độc đáo của người dân tộc Jrai ở Gia Lai cần được bảo tồn và phát huy.

Theo tapchikientruc.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông

Hằng năm, vào ngày Mão tháng 9 âm lịch, chính quyền và nhân dân xã Đông Cuông, tỉnh Lào Cai rộn ràng tổ chức Lễ hội Cơm mới Đền Đông Cuông. Đây là hoạt động truyền thống nhằm tổng kết một năm lao động, sản xuất, những người con quê hương, du khách bày tỏ lòng tri ân với Mẫu Thượng Ngàn, các đấng siêu nhiên phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Tranh tài ở 8 môn thể thao dân tộc đặc sắc

Sáng 23/10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên tổ chức Khai mạc Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh, năm 2025. Sự kiện là hoạt động thiết thực nhằm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Điện Biên lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025 - 2030; hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11/1945 - 23/11/2025) và 80 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946 - 27/3/2026).

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Độc đáo lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền ở Bản Sưng

Giữa nhịp sống hiện đại đang lan tỏa tới từng bản làng vùng cao, người Dao Tiền ở Bản Sưng, xã Cao Sơn (huyện Đà Bắc, Hòa Bình cũ, nay thuộc tỉnh Phú Thọ) vẫn bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa cổ truyền, trong đó có nghi lễ cưới, một trong những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc, phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, tín ngưỡng và đạo lý của cộng đồng.

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Lễ rước y trang Katê: Sợi chỉ đỏ thắt chặt tình đoàn kết Chăm – Raglai

Chiều 20/10/2025, khoảnh khắc thiêng liêng và xúc động nhất trước thềm lễ hội Katê chính là khi cộng đồng người Chăm làng Hữu Đức (Phước Hữu, Khánh Hòa) trang trọng đón nhận y trang từ người anh em Raglai. Đây không chỉ là một nghi lễ, mà còn là một minh chứng sống động cho mối giao hảo bền chặt, độc đáo đã được trao truyền qua nhiều thế hệ trên mảnh đất đầy nắng và gió. 

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Thăm hỏi, chúc tết Katê đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn

Nhân dịp Tết Katê năm 2025, trong 2 ngày 14 - 15/10, đoàn công tác Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Lâm Đồng do ông Nguyễn Phú Nghĩ, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thăm, chúc tết Katê và tặng quà đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại nhiều địa phương trong tỉnh.

Nguyên liệu chế biến canh Samlor Korko chủ yếu từ thực vật thiên nhiên, dễ tìm và sẵn có quanh nhà.

Độc đáo món canh Samlor Korko mang đậm hương vị Khmer

Nhắc đến ẩm thực của đồng bào Khmer Nam Bộ, không thể không kể đến những món đặc sản quen thuộc như bún nước lèo, bánh xèo, bánh cống hay bánh bò thốt nốt. Trong đó, canh Samlor Korko được xem là món ăn truyền thống lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của người Khmer.

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Giữ hồn văn hóa qua từng đường kim, mũi chỉ trang phục dân tộc Mông

Đồng bào Mông là một trong 3 dân tộc chiếm phần lớn dân số tỉnh Điện Biên. Trong đời sống văn hóa của đồng bào, trang phục không chỉ là nhu cầu mặc hằng ngày mà còn là một thành tố văn hóa quan trọng, được nhiều thế hệ gìn giữ, trao truyền như phần hồn cốt của dân tộc.

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Tiến tới Đại hội XIV của Đảng: Khát vọng phát triển Tuyên Quang trong kỷ nguyên mới

Những ngày này, từ các tuyến phố trung tâm cho đến tận các thôn bản nơi vùng sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Tuyên Quang đều rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ, băng rôn chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Đây là kỳ Đại hội đầu tiên sau khi hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, là sự kiện chính trị trọng đại, thể hiện ý chí, niềm tin và khát vọng của gần 1,9 triệu đồng bào các dân tộc trong tỉnh cùng hướng tới tương lai.

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer Cà Mau phấn khởi đón lễ Sene Dolta

Đồng bào Khmer tỉnh Cà Mau hiện có trên 32 nghìn hộ với gần 140 nghìn nhân khẩu, chiếm gần 6,5% dân số toàn tỉnh. Những ngày này, tại các địa bàn có đông đồng bào Khmer sinh sống, không khí chào đón lễ Sene Dolta, một trong những lễ hội truyền thống quan trọng và mang đậm bản sắc văn hóa của người Khmer, diễn ra rộn ràng. 

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Khát khao phục hồi, phổ biến các làn điệu dân ca H’rê

Tại miền đất Quảng Ngãi, các làn điệu dân ca H’rê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể mà còn là tiếng lòng của cả một dân tộc. Để những giai điệu này không bị lãng quên, vai trò của người phụ nữ dân tộc H’rê vô cùng to lớn. Họ là những nghệ nhân thầm lặng, miệt mài gìn giữ và lan tỏa tình yêu với âm nhạc truyền thống, biến những lời ca thành sợi dây kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ và hiện tại.

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Giữ gìn, phát huy văn hóa Mường trong không gian mới

Trong không gian bảng lảng khói sương của núi rừng, của bản làng, bên những ngôi nhà sàn gỗ, những mế (phụ nữ lớn tuổi), ẻm (cô gái trẻ) trong trang phục áo pắn (áo ngắn), váy dài quấn kết hợp với cạp váy dệt hoa văn tinh xảo, đeo tênh (thắt lưng), xà tích và vấn khăn trắng trên đầu. Tiếng chiêng mường vang vọng cùng lời mo rì rầm đưa con người về lại với cội nguồn, về với những giá trị cốt lõi từ ngàn xưa… Đó là văn hóa Mường, là di sản, kho báu tinh thần của cộng đồng người Mường Hòa Bình cũ, nay là tỉnh Phú Thọ.

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu của dân tộc Dao đỏ ở Lai Châu

Lễ rước dâu là một nghi thức quan trọng trong lễ cưới của đồng bào Dao đỏ ở bản Nậm Sáng, xã Mường Than, tỉnh Lai Châu. Trải qua thời gian cùng những thăng trầm của lịch sử, đến nay, người Dao đỏ nơi đây vẫn giữ được nghi thức truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc. Cô dâu mặc trang phục truyền thống rực rỡ sắc màu. Đoàn đón dâu nhà trai phải chuẩn bị một đội kèn trống gồm 4 người, đây là phần không thể thiếu trong nghi lễ đón dâu. Tiếng kèn, trống, chiêng, chũm chọe để chào mừng và thông báo cho tổ tiên, đất trời về sự kiện trọng đại này.

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram - Ngôi chùa độc đáo tại Cà Mau

Chùa Ghositaram tại ấp Cù Lao, xã Hưng Hội (Cà Mau) như một "bảo tàng mỹ thuật" thể hiện tài năng của các nghệ nhân Khmer. Ngôi chùa cũng là một trong những điểm đến văn hóa vô cùng độc đáo tại Cà Mau.

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Giữ hồn Then, lan tỏa bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Bắc Ninh là địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Trong dòng chảy văn hóa xứ Kinh Bắc, làn điệu Then vang lên như tiếng gọi của núi rừng, vừa mộc mạc vừa tha thiết. Tại miền đất giàu truyền thống văn hiến này, Then được cộng đồng đón nhận, trân trọng và đưa vào đời sống như một nét đẹp văn hóa; góp phần làm phong phú thêm bức tranh đa sắc màu của vùng đất này.

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Kết nối du lịch biển đảo với văn hóa đại ngàn Tây Nguyên

Sau khi hợp nhất, không gian phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk được mở rộng, tạo cơ hội cho các đơn vị, doanh nghiệp du lịch, lữ hành, lưu trú kết nối tiềm năng, lợi thế ở khu vực Đông - Tây. Du khách được trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc của biển xanh, cát trắng, nắng vàng và đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ cùng những bản sắc văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi.

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Lưu giữ nghề truyền thống làm lân sư rồng

Tây Ninh đang từng ngày gìn giữ và phát huy nghề truyền thống làm đầu lân cùng nghệ thuật múa lân sư rồng. Bằng đôi bàn tay khéo léo, các nghệ nhân tỉ mỉ tạo hình những chiếc đầu lân rực rỡ, hòa với nghệ thuật múa lân sư rồng trong các dịp lễ, Tết và chương trình nghệ thuật, tạo nên nét đẹp văn hóa gắn liền với đời sống tinh thần người dân, góp phần bảo tồn và lan tỏa bản sắc văn hóa đặc trưng của địa phương.

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Trải nghiệm dệt thổ cẩm ở làng nghề Xí Thoại, tỉnh Đắk Lắk

Thôn Xí Thoại (xã Xuân Lãnh, tỉnh Đắk Lắk) được biết đến là nơi lưu giữ nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Ba Na. Không chỉ là nét đẹp văn hóa mang tính bản sắc, nghề dệt ở đây còn là điểm nhấn thu hút du khách trong hành trình khám phá bản sắc văn hóa.